Ni Sư Hàn Quốc trong trại giam

 

(VHPG) Theo ngôn ngữ Hàn Quốc thì Sunim là danh hiệu tôn xưng một vị tu tập theo Phật giáo, không phân biệt vị ấy là Tăng hay Ni. Tại Hàn Quốc phụ nữ không bị hạn chế trong việc thọ đại giới. Nữ giới Hàn Quốc có tự viện riêng do chư Ni trụ trì, người nữ thọ giới có Y Chỉ Sư và Giáo Thọ Sư cũng là nữ giới. Họ hoàn toàn độc lập với chư Tăng về phương diện tài chánh. Trong vòng 500 năm, từ 1400 đến 1900, xã hội Hàn Quốc áp dụng Nho Giáo một cách khắc nghiệt, Phật Giáo không có chỗ đứng, do đó chư Tăng có rất ít quyền lực. Mặt khác các Vu  Đường (巫 堂), những người phụ nữ đóng vai trò trung gian giữa thần linh với con người, có địa vị quan trọng trong xã hội Hàn Quốc. Những yếu tố lịch sử và xã hội khác nhau đã giải thích tại sao trong mọi truyền thống Phật Giáo, chỉ có chư Ni ở Hàn Quốc là bình đẳng với chư Tăng nhất.

Đầu thế kỷ XXI, vai trò của Nho Giáo Hàn Quốc mất đi uy thế trước đây; và sự khôi phục Phật Giáo đã diễn ra, là điều không chỉ ảnh hưởng tới chư Tăng mà cà chư Ni. Nắm lấy thời cơ, chư Ni đã đến cư trú rồi trùng tu các ngôi chùa bị bỏ hoang, xây mới các thiền đường và giảng đường, nơi các Sư Cô có thể được huấn luyện một cách nghiêm chỉnh. Nhiều vị Thiền Sư đắc đạo, học giả Ni nổi tiếng đã xuất hiện, và các vị Ni khác cũng đạt được những thành quả theo cách riêng, đầy sáng tạo của mình.

Jamin Sunim, có nghĩa là Ni Sư Jamin, là một vị sư nữ nổi tiếng về hoạt động xã hội rất được kính trọng, ở tuổi ngoài 60, thuộc Hội Những Trưởng Lão Ni ở Hàn Quốc, thường thăm viếng các phạm nhân trong trại giam. Bà rất tử tế, thân thiện, dầu lúc nào cũng luôn bận rộn.

Bài viết dưới đây nói về việc hoằng pháp trong trại giam của Ni Sư Jamin, trích từ một bài tham luận của Martine Bachelor nói về ba vị Ni nổi tiếng đương đại ở Hàn Quốc, là các vị Jamin, Myohi, và Pomyong. Bài tham luận này đã được đăng trong sách Women’s Buddhism, Buddhim’s women: tradition, revision, renewal do Ellison Bank Findly biên tập, Wisdom Publications ấn hành năm 2000. Bản thân Martine Barchelor sinh ra và hiện sống tại Pháp, đã tu tập  theo Phật Giáo ở Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, được biết đến qua các tác phẩm viết vế phụ nữ với thiền học và môi sinh.

— oOo —

Sau khi xuất gia, tôi tham dự nhiều trường Phật học để học kinh điển suốt 13 năm. Sau đó tôi viếng các thiền đường và nhận thấy rằng thiền rất hữu dụng. Tuy nhiên vì chương trình tu học của tôi, Phật Tử luôn yêu cầu tôi dạy về kinh điển vì tôi nhận được sự truyền thừa và được phép dạy theo dòng truyền thừa nổi tiếng Pomosa. Tôi bắt đầu dạy học và cũng giúp dịch kinh Hoa Nghiêm (Avatamska Sutra) sang tiếng Đại Hàn. Suốt 13 năm, tôi dạy trong các tu viện, nhưng vì bị bệnh, tôi ngưng dạy nhiều và thay vào đó bắt đầu thỉnh thoảng giảng bài Phật pháp cho các cư sĩ. Ba năm trước đây tôi được mời đến giảng cho phạm nhân trong các trại giam.

Tôi đến trại giam mà không suy nghĩ nhiều về việc đó, vì tôi được mời đến để giảng cho một thời pháp thôi. Tuy nhiên, khi đã đến đó và gặp gở những người tù, tôi thay đổi ý định. Dầu một số tù nhân phạm các trọng tội, nhưng phần lớn họ hành động vô tình hay vì tự vệ. Họ có thể phạm tội trong nháy mắt  rồi nó qua đi, biến mất, sau đó họ trở lại bình thường  Những người họp lại để nghe tôi giảng pháp không có vẻ gì là phạm nhân.

Khi bước chân vào tù, các phạm nhân thường buông xuôi, buồn nản. Dầu tôi có cố  gắng để khơi dậy niềm hy vọng trong họ, nhưng điều đó thật khó, vì không có tình cảnh nào buồn thảm hơn là ở trong tù. Dường như người ta cố tình tạo ra một không gian ảm đạm, và ở đây người ta chỉ thấy, nghe và học hỏi về các tội ác. Đối với nhiều phạm nhân, nó trở thành một vòng lẩn quẩn. Vì vậy, những gì chúng ta gọi là tội ác, nó không thực sự hiện hữu – nó được điều kiện hóa bằng nhiều yếu tố.

Tôi cố gắng dạy các phạm nhân về luật nhân quả, nghiệp và quả. “Tất cả những gì tôi tạo ra, tôi sẽ nhận trở lại”. Tôi hỏi họ về hoàn cảnh riêng. Nhiều người rất nản chí, họ cảm thấy bị oan ức và hỏi: “Tại sao tôi đến chốn này? Tại sao tôi kết thúc trong hoàn cảnh này?”, rồi họ tự trả lời: “Vì tình yêu, vì tiền hay hoàn cảnh xã hội”. Trước khi tự phán xét bản thân, họ nghỉ ra đủ thứ chuyện để cảm thấy chua chát, oán hận cuộc đời, xã hội, cha mẹ anh em của họ.

Tôi khuyên họ hãy buông bỏ tất cả các oán hận, rồi tự quán chiếu xem mình đã hành động như thế nào, đã nhận lãnh những gì trở lại. Những suy nghĩ của chúng ta tất cả đều được tạo ra và phát triển từ hạt giống trong ta. Vì thế trước hết ta phải quán sát bản thân cẩn thận.

Khi tôi giảng những bài pháp thoại như thế, nhiều người đã khóc, và giữa những tiếng khóc đã có rất nhiều sự tự soi xét, quán chiếu bản thân. Nếu họ tiếp tục quán chiếu như thế, khi trở về lại với xã hội, ngay nếu như có những nỗi khổ không thể chịu đựng được, họ vẫn có thể kiên nhẫn chịu đựng. Sức mạnh để chống lại những phản ứng bản thân có được là nhờ những sự quán chiếu này. Tôi cảm thấy dù điều đó nhỏ nhặt đến đâu, nhưng nếu những gì tôi nói có thể giúp họ sửa đổi cá tính, thì như thế cũng đủ cho tôi rồi.

Nếu phạm nhân nào có yêu cầu, tôi sẽ gặp riêng họ để tư vấn. Có người muốn tâm sự về sự phản bội của người thân yêu. Người khác lại lo lắng về gia đình khi họ đang phải ngồi tù, và nhờ tôi chăm sóc gia đình họ nên tôi thường cố gắng tìm gặp gia đình họ để xem người thân họ sống như thế nào. Có nhiều tù nhân kỳ cựu không còn người thân nào cả, tôi giúp họ có mối thân thiện với người khác, chuẩn bị thực phẩm làm quà cho họ. Tôi cũng hỏi về ngày sinh để tổ chức gì đó cho họ.

Tôi lắng nghe họ chăm chú và dựa vào hoàn cảnh cá nhân của họ, tôi tìm những giáo lý thích hợp trong Phật Giáo để giảng lại cho họ. Tôi nhắc đến những đoạn kinh phù hợp để so sánh với hoàn cảnh của họ. Vì tôi là một người Phật Tử, một Ni Sư, tôi chỉ biết học theo giáo lý của Phật, dầu tôi cũng sử dụng từ ngữ của mình nói với họ về kinh nghiệm của mình những gì tôi đã học từ họ và những gì tôi sẽ khuyên nhủ người khác.

Qua việc phát triển trí tuệ, chúng ta có thể đạt được giác ngộ. Phật pháp không nói gì khác hơn. Phật pháp chỉ nói về sự hoàn thành và hoàn hảo cá tính của mỗi người. Khi chúng ta đã hoàn hảo cá tính của mình thì tình thương yêu và lòng bi mẫn sẽ xuất hiện. Không có, chúng ta sẽ khổ đau vì sân hận, bất mãn và oán hờn.

MARTINE  BACHELOR
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.