Phong cách nghệ thuật Hy Lạp – Phật Giáo ở Gandhara

0

Nguồn gốc trường phái nghệ thuật Hy Lạp – Phật Giáo (Greco-Buddhist) lừng danh này, theo một số học giả, bắt đầu khoảng thế kỷ II Trước TL ở Gandhara, một danh xưng chung chỉ vùng thung lũng hạ lưu sông Kabul, gồm những thành phố quan trọng như Purushapura ở Peshawar, Pushkalavati ở Charsada, và Hadda (gần Jalalabad hiện đại) là nơi mà hai nhà chiêm bái Pháp Hiển (thế kỷ IV-V) và Huyền Trang (thế kỷ VII) có ghi chép trong du ký của họ. Ngày nay Gandhara thuộc phía tây bắc Pakistan và phía đông Afghanistan. Những phát hiện sau đó (1936) mà học giả M. Hackin có lẽ là người đầu tiên đưa ra ý kiến về quê quán của trường phái nghệ thuật này nằm ở Bactria. Ông nỗ lực chứng minh nó bắt nguồn ở Bactria và sau đó đã phát triển vào cuối thế kỷ thứ I và đầu thế kỷ thứ II sau TL, đặc biệt dưới vương triều Kanishka ở Gandhara.

Bản đồ thời kỳ Gandhara, từ thế kỷ I trước TL đến V sau TL. Sau cuộc xâm lăng của Alexandre Đại Đế
vào thế kỷ III trước TL, nhiều thế lực Hy Lạp định cư ở biên giới Ấn Độ, từ đó phát sinh ra những nền
văn minh giao thoa giữa Hy Lạp – Ấn Độ ở Gandhara. ngày nay thuộc Pakistan và Afghanistan.
Sự hợp lưu văn hoá này đã tạo ra nghệ thuật điêu khắc miêu tả Đức Phật và cuộc đời của ngài.
Trong thời kỳ Kushan (I-III sau TL), đế quốc này trải thẳng xuống vùng trung nguyên Ấn Độ,
và cũng làm nảy sinh ra những trung tâm nghệ thuật vĩ đại và đầy ảnh hưởng ở Mathura.

“Nghệ thuật Gandhara” đặc trưng đã được công nhận đầu tiên năm 1833-34 khi một tấm phù điêu tròn bằng đá mô tả Đức Phật được Tiến sĩ Gerad khai quật gần Kabul. Theo ông, khởi đầu của trường phái nghệ thuật này xảy ra trong thời đế chế Parthia cai trị ở Gandhara, mặc dù lúc đó nó đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hoá Bactria – Hy Lạp. Chắc chắn trường phái này đã đạt tới sự cực thịnh dưới triều Kushan vào thế kỷ thứ II sau TL và dần lụi tàn vào cuối thế kỷ thứ III.

Như ta thấy, Aryana là nơi hội tụ những nền văn minh khác nhau. Những tư tưởng Hy Lạp và Bactria trộn lẫn vào nhau sau khi Alexander Đại Đế thuộc địa hóa lãnh thổ này. Và phong cách nghệ thuật này đã tìm ra con đường để đi vào Ấn Độ. Những nghệ sĩ phụ trách việc kiến tạo các trụ đá Asoka có lẽ đã được đào tạo trong trường Hy Lạp ở Bactria. Theo Sir-John Marshall, những trụ đá này chính là công trình của các nghệ sĩ ở Bactria. Trong thế kỷ tiếp theo, cũng trường phái Bactria đã tạo ra những bức chân dung tả thực cùng những hình tượng vua chúa và thần linh trên những đồng tiền Ấn Độ – Hy Lạp. Trước đó, những đồng tiền Ấn Độ “dập nổi” đều thô sơ, xấu, không theo đúng tỷ lệ và không đòi hỏi giá trị nghệ thuật. Mãi cho đến khi có sự xuất hiện của các hoàng đế Hy Lạp – Bactria ở Ấn Độ (đầu thế kỷ II trước TL) thì ảnh hưởng Hy Lạp – Bactria mới thực sự tác động lên nghệ thuật Ấn Độ. Ảnh hưởng này biểu hiện nổi bật nhất là trên đồng tiền. Trọng lượng chuẩn mực của đồng tiền được người Athen thiết lập; những truyền thuyết Hy Lạp và những kiểu mẫu rút từ thần thoại Hy Lạp cũng được vẽ kiểu theo nét đẹp và duyên dáng của nền nghệ thuật này.

Sau đó, nghệ thuật Hy Lạp – Bactria đã trải qua sự chuyển hóa không thể tránh khỏi trên lãnh thổ Ấn Độ. Những truyền thuyết kể bằng hai thứ tiếng, một bên là tiếng Hy Lạp, bên kia là tiếng Kharoshthi đã thay thế cho tiếng Hy Lạp. Dần dà, những đặc thù Hy Lạp nhạt phai, và những yếu tố Ấn Độ thay thế vào đã làm thiếu đi sự mới mẻ và sinh động. Quá trình thoái hóa này tiếp tục và càng nhanh chóng hơn khi các hoàng đế Hy Lạp – Bactria bị người Scythia lật đổ và thế chỗ. Tầm ảnh hưởng Hy Lạp – Bactria không giới hạn chỉ trên những đồng tiền đúc mà cũng có thể tìm thấy trên những cổ vật Ấn Độ thứ yếu khác trong thời đại này như đá ngọc, đất nung, v.v…

Dưới triều Scythia, họ kế tục người Hy Lạp trong thế kỷ thứ I trước TL, nên nguồn ảnh hưởng những yếu tố ngoại quốc trong nghệ thuật Ấn Độ càng yếu đi và dần thoái hoá thành sự mô phỏng thô thiển những hình thức Hy Lạp. Nhưng sự xuất hiện của triều đại Kushan vào thế kỷ thứ I sau TL đã thổi một luồng kích thích mới cho văn hóa Hy Lạp ở Đông Aryana. Gandhara đã trở thành trung tâm của một đế chế lớn và là cơ sở hội tụ của những nền văn minh khác nhau như Bactria, Hy Lạp, Ấn Độ, Phật Giáo và Iran. Từ đó ra đời một văn hoá mới tìm cách thể hiện qua một loại nghệ thuật mới gọi là Gandhara hay trường phái Hy Lạp – Phật Giáo. Trường phái này tìm cách thể hiện những tư tưởng Phật Giáo bằng những hình thức Hy Lạp. Những hình tượng về Đức Phật và những thần linh khác theo khuôn mẫu hình dáng những vị thần linh của Hy Lạp. Những dạng hoa văn và tà áo cũng là bản sao của khuôn mẫu Hy Lạp.


Đầu tượng Phật Gandhara, tương tự với đầu thần mặt trời Apollo của Hy Lạp cổ điển.

Tượng Phật đứng, TK II-III

Khoảng năm 400 TL, một trường phái nghệ thuật đã trỗi dậy thổi một luồng sinh khí vào những yếu tố đang lụi tàn của trường phái cũ. Trường phái này được gọi là Indo – Afghan để phân biệt với trường phái Hy Lạp – Phật Giáo về tinh thần cũng như về chất liệu rất khác biệt mà các nghệ sĩ đã áp dụng. Trường phái Gandhara sử dụng một loại đá mềm có sắc xanh gọi là diệp thạch (schist) được khai thác từ vùng núi Swat và Buner nằm ở phía Bắc khu vục Peshawar, trong khi đó trường phái Indo – Afghan hay gọi đúng hơn là phái Gandhara Hậu Kỳ đã sử dụng chất liệu chủ yếu là vữa (stucco) hay đất sét.

Một bức tượng Bồ Tát điển hình của trường phái Indo-Afghan, đất nung.

Bồ Tát Maitreya, trường phái Indo – Afghan.

Chuyện cuộc đời Đức Phật là đề tài chính của 2 trường phái này. Nên nhớ rằng, những trường phái Ấn Độ trước đó chưa từng mô tả hình dạng con người của Phật. Sự hiện diện của ngài chỉ được biểu thị bằng những biểu tượng (như cội bồ đề, dấu chân, ngai, hoa sen). Tuy nhiên, ở Gandhara, chúng ta giáp mặt với những mô tả hình dáng con người của ngài. Chiếc đầu Phật Gandhara (xem hình trên) được tạo dáng giống như thần mặt trời Apollo của Hy Lạp và thể hiện nét mặt của chủng Cap-ca, tóc búi dợn sóng. Còn tư thế Phật đứng thì thường khoác bộ áo dày và dài tới đầu gối, có vòng hào quang dẹt phía sau đầu. Trên phù điêu, những nếp áo có đường cong ngang và song song, giống với chiếc áo choàng toga của La Mã.

Hình tượng Đức Phật có niên đại sớm nhất được khắc trên một cái rương đá tìm thấy tại di tích Bimaran ở Afghanistan. Trong rương cũng chứa những đồng tiền đúc thời vua Azes II (cuối thế kỷ thứ I trước TL). Hình tượng thứ hai xuất hiện trên một cái rương khác phát hiện từ bảo tháp Shahi-ki-dheri, thuộc triều vua Kanishka Đại Đế.

Đầu tượng phật bằng đồng phát hiện ở di tích Ba Thê (An Giang), niên đại TK II-III
mang đặc trưng rõ rệt của nghệ thuật Gandhara đương thời.

Tượng Phật bằng đồng, Óc Eo (An Giang), niên đại khoảng cuối TK IV đầu TK V
gần gũi với điêu khắc Gandhara, nhất là tư thế đứng và bộ áo choàng, tuy nhiên hình dáng
mảnh mai hơn, khuôn mặt mang những nét đặc trưng của chủng tộc Đông Nam Á.

Cùng với sự lan toả của văn minh Ấn Độ dần dà xuyên qua Con Đường Tơ Lụa, thì gần như cùng thời gian, Phật Giáo và Hindu Giáo đã đến thẳng Đông Nam Á bằng con đường biển và cập bến vùng châu thổ sông Cửu Long để thành lập nên vương quốc Phù Nam (gọi chung theo thuật ngữ khảo cổ là văn hoá Óc Eo, kéo dài từ thế kỷ thứ I và dần lụi tàn vào thế kỷ X) đã đạt đến sự hưng thịnh. Vì thế, nghệ thuật Óc Eo ngay từ đầu đã có mối quan hệ trực tiếp với nghệ thuật Gandhara, có thể thấy qua những hiện vật bằng những chất liệu đa dạng như kim loại, gỗ, đá, đất nung, vàng lá… có niên đại rất sớm từ thế kỉ II–III, sớm hơn ảnh hưởng từ Trung Hoa rất nhiều. Đặc biệt các pho tượng Phật đã mang phong cách Gandhara và cũng cho thấy những nét đặc trưng riêng của bản địa vùng Đông Nam Á. Ánh sáng chiếu toả đáng kinh ngạc của nghệ thuật Phật Giáo trên đồng bằng Cửu Long này là những chiếu quang từ cái nôi mẹ – trung tâm của vùng thánh địa nghệ thuật Ấn Độ.

Giấc mơ voi trắng của hoàng hậu Maya.

Hoàng hậu Maya sinh Thái Tử (về sau thành Phật) từ cạnh sườn, thời kỳ Kushan.

Cuộc xuất ly khỏi cung điện của Thái Tử (về sau thành Phật), Gandhara TK II.

Đức Phật thuyết pháp trong vườn Lộc Uyển, TK II-III.

Một cảnh trong cuộc đời của Đức Phật, TK II-III

Đức Phật và Hộ Pháp Vajrapani (Kim Cương Thủ Bồ Tát) dưới lốt anh hùng Herakle (Hercule).

Phật nhập Niết Bàn.

Tam Tôn Phật: Đức Phật (giữa), Bồ Tát Maitreya (trái), Avalokiteshvara (phải), hai bên là một Tín đồ và một Tăng sĩ.

Bồ Tát Maitreya trong tư thế đứng, TK I-III.

Bồ Tát Maitreya, TK IV-V.

Bồ Tát Maitreya, TK II-III.

Bồ Tát Maitreya, Gandhara TK II-III.

Bồ Tát đang quán tưởng, TK II-III.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– International Encyclopaedia of Buddhism, Vol.1: Afghanistan, Anmol Publications 1996.
– Lê Thị Liên, Nghệ thuât Phật Giáo và Hindu Giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X, NXB Thế Giới – 2006.
– Wikipedia: “Gandhara”.

HÀ VŨ TRỌNG

CHÚ THÍCH: Nhận xét, lập luận, quan điểm trong bài viết là nghiên cứu và lập luận của cá nhân tác giả qua các tài liệu tham khảo. BBT Thư Viện GĐPT.

 

Share.

Leave A Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.