TIỂU SỬ
CỐ NI SƯ THÍCH NỮ THỂ QUÁN
(Sư Bà Thể Quán)
[1911-1982]
Giám Luật Ni Bộ Bắc Tông
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Tỉnh Thừa Thiên.
oOo
THÂN THẾ:
Cố Ni Sư thế danh là Thái Thị Hậu, sinh ngày 14 tháng 3 năm Tân Hợi (tức ngày 12 tháng 4 năm 1911) tại Cố đô Huế; nguyên quán làng Quy Thiện, xã Hải Quy, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Từ thuở ấu thơ thân phụ đã cho quy y với Hòa Thượng trụ trì chùa Quy Thiện, pháp danh Không Luân.
Ni Sư vốn xuất thân trong một gia đình quyền quý, mộ đạo Phật, nội ngoại thân thích đều thuộc dòng dõi Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, là những người có tiếng hay thơ. Ngoại tổ của Người là một người vừa đẹp vừa tài đức vẹn toàn, lại am hiểu giáo lý nhà Phật và giáo dục con cháu rất nghiêm minh. Chính cụ Tổ là người đã có ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời Ni Sư sau này. Thân phụ là quan đầu triều Lại Bộ kiêm Binh bộ Thượng thư sung Cơ mật viện Đông các Đại học sĩ Thái Văn Toản đời vua Khải Định. Thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Phước Như Nguyện pháp danh Như Cầu, tự Diệu Trí (mãn phần năm Bính Thìn – 1976 tại Hoàng Mai Tịnh Thất sau 10 năm sống ở chùa).
THỜI THƠ ẤU:
Trong tác phẩm văn học cuối cùng “Để Lại Cho Vui”, Ni Sư có viết: “Tôi sinh dưới vì sao xấu”. Song thân của Ni Sư rất yêu quý nhau, nhưng khi sinh ra Người cũng như hai con đầu đều là gái, không đáp ứng lòng mong mỏi “con đầu dâu trưởng” (tức phải có con trai nối dõi tông đường) nên theo yêu cầu của bà Nội, song thân phải xa nhau. Người theo mẹ được cha đưa về sống cùng với bà ngoại. Tuổi thơ của Người theo năm tháng lớn dần trong tình thương yêu đùm bọc và giáo dục của gia đình bên ngoại. Các cậu, các dì dạy cho học chữ quốc ngữ, đồng thời Người cũng huân tập được những đức tính chịu thương chịu khó, nhẫn nại, hy sinh của mẹ hiền, đức tính khiêm tốn, thật thà nhưng cương quyết và tự trọng của bà ngoại kính yêu.
Năm 13 tuổi, thân phụ về làm Phủ Doãn Thừa Thiên mới đưa Người trở lại tư thất sống cùng với các chị em và kế mẫu. Tại đây, Người theo học trường Đồng Khánh nhưng chưa được hai năm thì phải nghỉ học để lo việc bếp núc, nội trợ ở nhà.
Cuộc sống của Người gặp nhiều chướng duyên oái ăm, tình cảnh ấy được bà thím dâu là Nữ sĩ Tương Phố cô đọng trong mấy vần thơ:
Có mẹ vì đâu xa cách mẹ
Còn cha không lẽ hửng hờ cha.
Tháng ngày một lệ chầu vua bếp
Roi vọt cười khan với cảnh nhà.
Cháu vẫn một lòng không oán hận
Quan san riêng thím giọt hồng sa.
Người họa lại:
Đỉnh chung há dám quên tình mẹ
Nồng lạnh cho trong hiếu với cha.
Bếp núc lo toan là phận gái
Quở la thường sự việc trong nhà.
Cháu thấy mình còn hơn triệu triệu
Chúng sanh đau khổ khắp hà sa.
Bài thơ họa sau đó được trình lên các “chư sơn”, các Ngài đều cho rằng bài thơ có phong vị giải thoát và pháp khí Đại Thừa.
Quả thật dù gặp nhiều nghịch cảnh nhưng lúc nào Người cũng giữ tròn đạo hiếu với cha mẹ, kính chị, thương em và hòa nhã với mọi người. Với tư chất thông minh và nhạy cảm, dù sống giữa cảnh quyền quý xa hoa nhưng Người đã nhận ra lẽ vô thường của vạn vật:
“Kiến văn như huyễn ế
Tam giới nhược không hoa.”
Từ nhận thức đó Người mang niềm mơ ước bay xa, mơ ước được thoát khỏi địa ngục Ta Bà, mơ ước được dùng bàn tay bé nhỏ nhưng đầy bao dung rửa gột vết thương muôn loài, hàn gắn vết thương nhân loại. Ấp ủ niềm mơ ước đó, Người nhận ra rằng chỉ có một con đường duy nhất để biến ước mơ thành hiện thực, đó là con đường xuất gia tu hành, thượng cầu Phật đạo – hạ hóa chúng sanh.
THỜI KỲ XUẤT GIA TU HỌC:
Đêm trăng tròn Vu Lan, một đêm thiêng liêng quyết định cuộc đời của Ni Sư. Ánh trăng tỏa sáng khắp khuôn viên tư thất quan đại thần. Trong lúc các chị em say sưa chuyện trò vui vẻ, riêng Người vẫn miên man suy nghĩ về con đường mình chọn để quyết định dấn thân. Tiếng chuông chùa Diệu Đế bên kia dòng sông Hương vẳng lại lay động cả không gian như thức tỉnh những con người lầm đường lạc lối. Âm vang của tiếng chuông như một sức mạnh huyền bí khiến Người bật dạy và quyết định ra đi:
“Bởi giấc mơ tiên cơ lỡ say
Lòng con mến Phật tự bao ngày
Đêm nay chuông gọi hồn con tỉnh
Phủi sạch trần ai con đến đây.”
Người ra đi về phía núi Ngũ Phong, chùa sư nữ Diệu Viên (Ngũ Phong sơn Diệu Viên tự) để tầm sư học đạo với tuổi đời 27 trên vai. Đến Diệu Viên, Người được Ni Sư Hướng Đạo trụ trì chùa chấp nhận cho ở lại. Sau 26 ngày nương tựa cửa Phật, Người đã tự tay cắt tóc.
Khi hay con mình xuất gia, thân phụ gởi Người vào tu ở chùa Khương Ninh trong Đại Nội, một cảnh chùa trong cung vua, của đức Từ Cung đương kim Hoàng thái hậu. Ngoài những buổi công phu, chấp tác, Người đọc sách, nghiên cứu kinh điển, thỉnh thoảng ra chùa Phước Huệ để nghe bà ngoại giảng kinh A Di Đà và những yếu lý trong kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già. Ngoài ra Người còn sưu tầm, nghiên cứu 3.000 chữ Hán để làm bộ tự điển nhưng sau chẳng may bị thất lạc mất.
Sau ba năm ở “chùa vua”, Người nhận thấy bể học mênh mông mà đóng khung mãi trong ngôi chùa nguy nga tráng lệ này thì sẽ không tiến lên được. Nhờ Ni Sư Diệu Không giới thiệu và được đức Từ Cung chấp thuận, Người lên đầu sư với Hòa Thượng Ni thượng Trừng hạ Ninh, húy Diệu Hương, là Đệ nhất Giám đốc Phật Học Ni Viện Diệu Đức – Huế, và được ban pháp hiệu là Thể Quán, thuộc dòng Thiền Lâm Tế chánh tông đời thứ 43.
Vừa thông minh lại vừa sẵn có tác phong uy nghi từ thuở nhỏ nên Người được các bạn đồng tu thương mến, nể vì. Cũng do tư chất đặc biệt ấy nên sau 4 năm làm điệu, Người thọ cả ba giới Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na và Tỳ-kheo-ni trong cùng một năm tại Đại Giới Đàn Thuyền Tôn vào mùa thu năm Giáp Thân (1944) do Hòa Thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn Đầu, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Yết-ma.
Người vận dụng sở học vào cuộc sống hàng ngày, chuyên cần niệm Phật. Theo lời chư Tổ dạy: “Một ngày không làm, một ngày không ăn”, Người thể hiện ý chí tự lập qua việc đan áo, chằm nón; thâu nhập kiếm được một phần độ nhật, một phần mua vải may áo tặng trẻ sơ sinh trong sản viện.
Giữa lúc đạo học ngày một tăng tiến thì một biến cố lớn đã xảy ra: thân phụ Người sau khi ra Bắc làm cố vấn cho liên khu Tư đã qua đời sau một cơn bệnh (năm 1954).
Khoảng năm 1956, Người bệnh nặng, phải vào Sài Gòn chữa trị hơn 4 tháng. Khi lành bệnh trở về Huế, theo lời khuyên của bác sĩ cần một nơi thanh tịnh, thoáng khí để tịnh dưỡng, Người đã đến ở chùa Hồng Ân với Ni Sư Diệu Không. Hai năm sau, Người lập cạnh chùa một tịnh thất để tu hành, bây giờ là Hoàng Mai Tịnh Thất.
Năm 1958, thất lập xong Ni Sư cùng pháp muội là Ni Sư Cát Tường đóng cửa 5 năm không tiếp xúc với bổn đạo để tịnh tu cho đến Pháp Nạn 1963.
THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:
Sau khi thọ Tam đàn Cụ túc, Ni Sư bắt đầu thực tập để đảm nhận sứ mạng ‘Như Lai sứ giả’. Không quản ngại đường xa, đau ốm thất thường, Ni Sư đã đem lời Phật dạy đến tận thôn cùng ngõ hẻm nhằm thức tỉnh lòng người đang mê đắm trong vòng danh lợi: Viễn Trình, Phú Thứ, Triệu Phong, Đông Hà và các Khuôn Hội ở thành phố Huế đều in dấu chân Ni Sư. Pháp âm của Ni Sư vang vọng trên các đạo tràng ở Tây Thiên, Bát quan trai Từ Đàm, các trại huấn luyện giáo dục Phật-đà của Gia Đình Phật Tử… Với đạo lực lan tỏa, với giọng nói truyền cảm pha chút dí dỏm, Ni Sư đã thực sự đem lại an vui, tin tưởng cho đông đảo thính chúng.
Về mặt giáo thọ Ni chúng, Ni Sư rất tinh tấn. Liên tiếp nhiều năm Ni Sư dạy ở các Ni trường Diệu Đức (Thừa Thiên), Diệu Ấn (Phan Rang, 1962), Diệu Quang (Nha Trang, 1964) và đã giáo hóa rất đông Học Ni. Năm 1971, Ni Sư làm Giám Luật Ni Bộ Bắc Tông Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Ni Sư là tấm gương sáng cho tinh thần dân tộc và bảo vệ đạo pháp thể hiện qua các cuộc vận động năm 1963, 1966. Chính Ni Sư cũng đã chăm sóc cho sự lớn mạnh của Gia Đình Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Thanh Niên Phật Tử…
Năm 1968, Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Thừa Thiên giao phó cho Ni Sư chức vụ Đặc Ủy Xã Hội, cùng Ni Sư Cát Tường làm Trưởng Ban Cứu Trợ để cứu giúp đồng bào nạn nhân chiến tranh, thiên tai bão lụt, cùng các mặt xã hội khác. Ngay từ đầu, công tác đã khai triển trên phạm vi rộng lớn và có chiều sâu. Các trạm y tế, các cô – ký nhi viện mở rộng xuống đến đơn vị cơ sở là Khuôn Giáo Hội. Một năm sau, Ni Sư làm Giám đốc Trường Bồ Đề Lâm Tỳ Ni, mở khóa Sư phạm Mẫu giáo đầu tiên tại chùa Diệu Đế để đào tạo các Giáo viên theo tinh thần Phật Giáo.
Với tinh thần ‘Phụng sự chúng sanh tức cúng dường Chư Phật’, Ni Sư Thể Quán và Ni Sư Cát Tường đã vận động được mọi tầng lớp Phật Tử tự nguyện chung lo Phật sự, nhờ thế trong các cuộc cứu trợ trên toàn tỉnh Thừa Thiên – Huế liên tiếp trong các năm 1968 đến 1972, Đặc Ủy Xã Hội đã đạt được những kết quả tốt đẹp.
Tóm lại, nhờ đức tính hy sinh cao cả, nhờ có một ý chí kiên trì, một tâm hồn vị tha xả kỷ, Ni Sư đã vượt qua mọi khó khăn để viên thành Phật sự.
SÁNG TÁC & DỊCH THUẬT:
Sự nghiệp văn học của Ni Sư rất phong phú, bao gồm nhiều thể loại: Dịch thuật, trước tác, thơ văn… Số lượng tác phẩm khá lớn, nhưng có nhiều cuốn chưa được xuất bản. Thơ văn của Ni Sư là những bông hoa tươi thắm trong vườn hoa đạo hạnh, qua đó thể hiện cốt cách một bậc chân tu có cuộc sống đạm bạc nhưng tâm hồn mang một hoài bão lớn: Ban vui cứu khổ muôn loài. Sắc thái nổi bật là sáng tác thường rất nhẹ nhàng, giản dị, đôi khi pha chút dí dỏm như nói chuyện, tuy dạy đời mà nhã nhặn khiêm cung.
Một số tác phẩm của Ni Sư sưu tập được gồm:
- Dịch thuật:
– Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (1968).
– Tỳ Kheo Ni Giới (1975).
– Bồ Tát Giới (1979). - Phỏng dịch:
– Liêu Trai Chí Dị. - Truyện:
– Dấu Xe Muôn Thuở.
– Em Bé Dâng Hoa.
– Bóng Hạnh Phúc.
– Nét Đẹp Đông Phương tập I (1961).
– Nét Đẹp Đông Phương tập II (1963).
– Thiên Biến Vạn Hóa (1967).
– Tiếng Than Người Vợ Trẻ (1961).
– Em Mơ Người Hoang Đảo (1970).
– Biệt Thự Hoàng Y Lan (1970).
– Tiếng Trúc Vi Vu (1971).
– Để Lại Cho Vui (chưa in).
– … - Văn xuôi, văn vần…
Thơ của Ni Sư ngoài một số bài xướng họa in rải rác trong các tác phẩm văn xuôi, hoặc xướng họa với các vị đồng tu trên thư từ, còn có các bài sau:
– Lời Trăng Nước.
– Tăng Ghé Hoàng Mai.
– Cảm Tác.
– Ước Nguyện.
– Cảm Nỗi Vô Thường.
– Dưới Mồ Nói lên.
– Phúc Đáp Thơ Một Nữ Đạo Hữu.
– Tiễn Cô Diệu Tịnh Về Nam.
– …
Ngoài ra, trong nhiều năm (từ 1954 đến 1966), Ni Sư là cộng tác viên cho Nguyệt san Liên Hoa, từ năm 1966 là chủ biên Tập san giáo dục thiếu nhi Sen Hồng.
TẤM GƯƠNG HIẾU ĐẠO:
Nói đến hạnh hiếu của Ni Sư, Hòa Thượng Thiện Trí đã viết:
Niềm hiếu thảo rứa mặn nồng biết mấy
Với mẹ cha cung phụng tận tình con
Nghĩa nhân luân cư xử thật vuông tròn
Xây nền tảng trước tiên trong trăm hạnh.
Thật vậy, hạnh hiếu thảo của Ni Sư là tấm gương muôn thuở, ngày còn ở nhà Người phụng dưỡng chu đáo song thân, kính chị nhường em và luôn luôn tạo hòa khí yên vui cho mọi người. Sau khi xuất gia Ni Sư vẫn lo tròn hiếu đạo. Đối với cha, Người dõng mãnh làm theo lời di huấn: ‘Nhất tâm tự học để bảo vệ danh dự gia đình’. Thương cha Ni Sư tụng kinh bái sám cầu nguyện cho cha tội diệt phước sanh. Đối với mẹ thì lòng hiếu thảo của Ni Sư đến các đấng vô hình cũng cảm động. Ni Sư dùng tiền in sách để làm cho mẹ một cái nhà nhỏ cạnh tịnh thất rồi chí thành tụng kinh Pháp Hoa mong nhờ pháp lực hộ trì cho mẹ hướng về cảnh tịnh. Và lòng thành đã cảm ứng, cụ bà vốn không ăn chay, không thích nếp sống nâu sòng vậy mà tự dưng đổi ý, xuống tóc và lên ở chùa trai giới.
Năm 1972, Ni Sư đưa mẹ vào Đà Nẵng, rồi Nha Trang, Phan Rang để lánh nạn, đến cuối năm 1973 lại dắt dìu mẹ về tịnh thất. Ni Sư chí thành hầu mẹ sớm hôm, lo từng bữa cơm bữa cháo và làm hết cách để mẹ vui. Cho đến những ngày cuối cùng của đời mẹ, Ni Sư vẫn lo tròn chữ hiếu. Trong “Lá thư gởi mẹ bên kia thế giới”, Ni Sư đã viết: “Mẹ ơi! con thương mẹ vô cùng vô tận, nhờ nghĩ đến mẹ con sẽ gặp nhau bên nước Phật mà con cảm thấy vui và rất an tâm”. Hiếu đạo đến như vậy thật chỉ có nơi những người tu giải thoát.
VIÊN TỊCH:
Văn thơ của Ni Sư có nhiều chi tiết lạ khiến người đọc tự hỏi có phải Ni Sư đã “dự tri thời chí” không? Chẳng hạn bài tứ tuyệt sau đây:
Mẹ về Cực Lạc bảy năm thì
Từ giã Ta-bà con cũng đi
Mẹ nhớ đón con bên nước Phật
Mẹ con cùng dự hội Liên Trì.
Cụ bà mất năm 1976, đến năm 1982 vừa được bảy năm. Ít nhất có ba bài viết khác nhau nói đến con số 7 kỳ diệu đó. Thật vậy, sau 7 năm kể từ ngày Cụ bà mất, Ni Sư cũng theo mẹ về bên kia thế giới.
Những ngày tháng cuối cùng Ni Sư rất minh mẫn, tự tại, dù sắc thân tứ đại theo luật vô thường có bị đau yếu. Đầu mùa hạ năm Nhâm Tuất, Ni Sư có đi thăm một số chùa do đệ tử trông coi ở Huế như Hòa Lương, Hương Lưu… Trong bức thư gởi Ni chúng nửa tháng trước khi viên tịch, Ni Sư đã gởi lời thăm và cảm tạ trên từ quý Sư Bà, thứ đến quý Ni Sư và toàn thể Ni chúng đã hết lòng chăm sóc, cầu nguyện cho Người trong thời gian bệnh nặng vừa qua, kèm theo thư Người gởi tặng toàn thể Ni chúng mỗi vị 20 đồng.
Ngày 13 tháng 4 năm Nhâm Tuất (1982), Ni Sư gọi xe chuẩn bị đi lạy Tổ để về An Cư, nhưng hôm sau xe đến thì Người mệt nên không đi được. Từ đó cho đến một tuần sau Ni Sư vẫn thư thái, sức khỏe tuy yếu nhưng không có gì nguy kịch.
Ngày 20 tháng 4 nhuận năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 11 tháng 6 năm 1982), thấy người mệt nhiều, Ni Sư cho mời Thầy Hải Ấn (là bác sĩ vẫn thường xuyên thăm bệnh cho Người) rồi sang Hồng Ân thưa Sư Bà Tuần-chúng. Ni Sư khiến thị giả qua Trúc Lâm mượn xe cho hầu Người về Kiều Đàm để tiện việc điều trị. Đến 6 giờ Người nói “khuấy một ly bột ăn thử có được không” rồi tự mình ngồi dậy ăn được nửa ly. Ni Sư pha cho Người một ly trà nóng, uống xong Người chắp tay vái Ni Sư ba vái. Hướng mắt về các đệ tử, Người dạy: “Hai Sư có đi khỏi thì các con qua lạy Sư bà Tuần-chúng, xin y chỉ mà an cư.” Nói rồi Người tự mình nằm xuống giường an nhiên trút hơi thở cuối cùng để đi về cõi vô cùng.
Tưởng rằng Người vái tạ Ni Sư đã chăm sóc mình trong bữa ăn, không ngờ đó là lời từ giã vô ngôn lần cuối cùng đối với pháp muội, người đã gắn liền với cuộc đời và đạo hạnh của Cố Ni Sư. Bởi vì ngay giây phút sau đó Người đã an nhiên bước vào tịch diệt, thọ thế 72 năm với 38 tuổi hạ. Lúc ấy đúng 6 giờ 30 phút ngày 20 tháng 4 nhuận năm Nhâm Tuất (11/6/1982).
Di nguyện của Cố Ni Sư được tìm thấy trong những trang nhật ký cuối cùng. Người dặn: “Tang lễ đơn giản”, “không mua hòm tốt”, “liệm đồ thật nhẹ để mấy Minh bưng ù ra vườn”. “Không xây tháp”, “để tiền xây tháp và phúng điếu mà cúng dường và bố thí”… Ôi! Thật không còn ngôn từ nào hơn để nói về cuộc đời của bậc tu hành thanh tịnh đã dày công vun trồng cây Chánh Pháp và dốc lòng cứu thế độ nhân bằng chính những lời đơn sơ trên đây!
Cuộc đời Cố Đại Ni đến đây đã mãn! Vầng nguyệt rạng giữa Hoàng Mai Thất đã lặn bóng về Tây nhưng từ quang của Người vẫn còn viên dung giữa vạn lòng người và ngàn cây nội cỏ.
Nam Mô Khai Sơn Hoàng Mai Thất Thượng Không Hạ Luân Hiệu Thể Quán Giác Linh Tôn Sư tác đại chứng minh.
XUẤT XỨ TÀI LIỆU:
Tịnh Nghiệp Đạo Tràng Tây Thiên.