NGƯỜI LÃNH ĐẠO
TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
Luận văn kết khóa Trại Vạn Hạnh V/T.Ư GĐPTVN – 2002
Trại sinh: Nguyên Linh – Phạm Quốc Việt Trị
oOo
DÀN BÀI
– THAY LỜI NÓI ĐẦU.
– PHẦN TỔNG QUAN LUẬN KHÓA.
– PHẦN THỨ NHẤT: NGƯỜI LÃNH ĐẠO
I/ Lãnh đạo và chỉ huy.
II/ Lãnh đạo và quyền lực.
III/ Sự khác nhau giữa lãnh đạo quốc gia và lãnh đạo đoàn thể.
IV/ Quyền hành của người lãnh đạo đoàn thể.
– PHẦN THỨ HAI: NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG GĐPT
I/ Vài nét chính yếu về GĐPT.
II/ Lãnh đạo – quyền lực – uy quyền trong GĐPT.
III/ Huynh Trưởng GĐPT người lãnh đạo:
1. Nhân cách người Huynh Trưởng.
2. Khả năng lãnh đạo.
3. Tứ Nhiếp Pháp trong công tác lãnh đạo.
– PHẦN THỨ BA: Ý THỨC VÀ TẦM NHÌN
I/ Xác định hướng đi – con đường lý tưởng.
II/ Tầm mắt nhìn lên: Giáo Hội – Các thế hệ đàn anh.
III/ Nhìn lại chính mình.
IV/ Tầm mắt nhìn ngang: Các đoàn thể bạn.
V/ Tầm mắt nhìn xuống: Các thế hệ đàn em.
– PHẦN KẾT LUẬN.
oOo
THAY LỜI NÓI ĐẦU
Sải tay cuối cùng để thâu ngắn khoảng cách của dây đã đưa bước chân anh đặt trên đỉnh đá. Từ đỉnh núi cao, phóng tầm mắt về hướng biển, nơi đó từ xa xa thấp thoáng thấp thoáng mái chùa nằm yên dưới những tán cây.
Đỉnh núi đá được chinh phục, một cảm giác sung sướng nhẹ nhàng đã lấp đi nỗi hồi hộp choáng váng vì độ cao. Chiếc nón Tứ Ân nhỏ bé đã che cái nắng gay gắt của buổi trưa vào hạ, một cơn gió nhẹ thoáng qua, chiếc áo lam ướt thẩm mồ hôi thấm vào da thịt đã làm tan đi cái mệt của một cuộc hành trình.
Từ trong lòng anh chợt vang lên tiếng vọng: “Cuộc hành trình là con đường, người ta đi để chinh phục chứ không phải là khuất phục, sự chiến thắng trăm vạn quân vẫn không bằng chiến thắng được chính tâm hồn mình”.
Vâng! Anh đã là kẻ chinh phục và tất cả những Trại Sinh hôm nay cũng vậy, vì không một ai khi nhập cuộc lại không muốn leo lên đỉnh đá to lớn mang biểu tượng Hoa Sen Trắng này dẫu biết rằng hiểm nguy.
Chinh phục được nỗi lo âu sợ hãi, chính là việc trui rèn ý chí, vì để đặt được những bước chân đến đây, các Huynh Trưởng trại sinh đã thể hiện được năng lực của mình bằng khả năng của người làm Trưởng, đã vượt qua những chướng ngại, lặn lội trong rừng, vượt suối, leo đồi suốt mấy tiếng đồng hồ theo hướng chỉ của kim la bàn. Và cuộc đời của mỗi người cũng thế, cũng chỉ là một trò chơi lớn. Chọn cho mình một lý tưởng – mục đích của cuộc sống là chọn cho mình một hướng đi trong cuộc đời muôn ngàn vạn lối, để rồi khi chấp nhận một lý tưởng là đã chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời – những khó khăn trở ngại trên con đường hướng đến mục đích chính là những điểm mốc để chinh phục, chứ không là khuất phục.
Con đường đã định hướng. Cuộc sống có mục đích, nhất là cái mục đích phụng sự cho nhân sinh, cho xã hội trong tình thương và trí tuệ của đạo Phật, thì không ai có thể tước mất cái mục đích muốn vươn tới của chính cuộc đời anh. Đường anh đi, không phải chỉ có riêng anh mà sau lưng anh, sau lưng một người Trưởng – đàn em đang nối bước.
Hôm qua đến đây, anh và mọi người đơn thuần chỉ là những du khách, nhưng khác hẳn những đoàn du khách đặt chân lên bãi biển này – một kỷ luật tự giác được đặt đến cao độ trong mỗi người: Tâm luôn luôn tỉnh thức trong từng ý nghĩ, lời nói, hành động. Chỉ cần một cái vẫy tay, gần trăm con người đã quanh nhau tề tựu.
Đêm yên lành đã qua, kim đồng hồ đều đặn xoay trên trục, như tiếng sóng biển đều đặn vỗ bờ, dỗ dành cho Trại Sinh những giấc ngủ bình yên, nhưng cũng là nhịp đập trái tim của từng thành viên trong Ban Quản Trại. Đã bao lần các anh chị tranh đấu cho một điểm dừng chân. Chính vì muốn bảo vệ tinh thần của bản Nội Quy GĐPTVN tích tụ bằng cân não và xương máu của bao thế hệ Huynh Trưởng trong suốt chiều dài lịch sử của Đạo Pháp và Dân Tộc, mà những chướng duyên, trở ngại luôn theo đuổi trên những bước chân đi, nhưng nó lại chính là chất men làm bùng lên sự quyết tâm theo đuổi lý tưởng đến cùng. Rồi bình minh ló dạng – Trăm áo lam nở rộ đã thể hiện tinh thần tùy duyên nhưng mãi mãi bất biến của người áo lam.
Đỉnh núi được chinh phục – và con đường trước mặt đang chờ đợi những bước chân lam…
NGUYÊN LINH
Phú Lâu Na 2
Trại Họp Ban Huynh Trưởng GĐPT Gia Định – 1999
oOo
PHẦN TỔNG QUAN LUẬN KHÓA
Trong dịp tình cờ nào đó, nhìn lên trời cao, ta bắt gặp một đàn chim đang vỗ cánh tung bay, một hình ảnh thật đẹp, những đôi cánh lúc thì nghiêng đồng loạt, lúc thì cùng lượn vòng và cùng bay về một hướng. Nếu nhìn kỹ, ta thấy tất cả những thành viên của đàn đều làm theo, bay theo dưới sự dẫn dắt của con chim đầu đàn. Trách nhiệm về sự sinh tồn của cả một đàn – đòi hỏi nó phải có khả năng định hướng cao, khả năng nhận biết hướng gió để đưa đàn về nơi có nguồn sống, và nhất là nó biết nhiếp phục tất cả mọi thành viên trong đàn luôn đặt niềm tin vào nó, tin vào sự lãnh đạo nơi nó – vì nó là nhân tố có thể đưa đàn đến cái đích mà tất cả đều mong muốn.
Hình ảnh con chim đầu đàn, chính là hình ảnh người lãnh đạo.
Trong tập luận khóa này, chúng tôi muốn xây dựng người lãnh đạo GĐPT TOÀN QUỐC qua hình ảnh con chim đầu đàn, đó là hình ảnh thân thương của tổ chức Áo Lam GĐPTVN – Vì từ lúc nào chẳng biết, bài hát “Chúng ta là chim, bốn phương bay về đây…” đã luôn ở trong trái tim người Đoàn Viên GĐPT, bài hát với hình ảnh đàn chim vổ cánh quay về mái chùa theo từng nhịp đập của trái tim mỗi thành viên chúng tôi. Hơn thế nữa, hình ảnh người lãnh đạo trong GĐPT quả đúng là con chim đầu đàn – vì GĐPT là một đoàn thể giáo dục tự nguyện, nó mang tính chất xã hội, bất vụ lợi, và nhất là nó không thể trở thành công cụ của bất kỳ thế lực nào, do đó lãnh trách nhiệm đưa tổ chức GĐPT đi đúng với mục đích của GĐPT trong bối cảnh một đất nước đầy những biến đổi của lịch sử, đổi thay các định chế xã hội thì quả thật người lãnh đạo GĐPTVN đã phải cố gắng lèo lái con thuyền Lam vượt qua bao phong ba, bão táp để tồn tại và phát triển cũng như con chim đầu đàn có trách nhiệm đưa cả đàn tìm về nơi có nguồn sống.
PHẦN THỨ NHẤT – NGƯỜI LÃNH ĐẠO: Trong phần I của tập luận khóa, chúng tôi đưa ra khái niệm lãnh đạo và chỉ huy để thấy rằng lãnh đạo là một nghệ thuật, nghệ thuật này là: người lãnh đạo biết biến ước mơ của mình thành ước mơ của mọi người; đề án mà mình vạch ra là đề án hành động của mỗi một thành viên; quyền lực của đoàn thể mà mọi người trao phó cho người lãnh đạo hành xử là để thực hiện mục đích mà đoàn thể đó hướng tới; vì người lãnh đạo trên hết là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của tổ chức mà mình đứng đầu. – Tìm hiểu tại sao lãnh đạo lại gắn liền với quyền lực, sự khác nhau về cách hành xử quyền lực của người lãnh đạo chính quyền điều hành đất nước và người lãnh đạo một đoàn thể mang tính chất xã hội. Vì nếu con người không thể chọn cho mình một nơi để sinh ra thì con người bắt buộc phải tuân thủ những định chế của quốc gia đó – trong khi con người sống trong xã hội lại có quyền lựa chọn việc tham gia hay từ chối sinh hoạt một đoàn thể – thì cách hành xử quyền lực của người lãnh đạo đoàn thể xã hội phải như thế nào để mọi người tuân hành theo những quyết định của người lãnh đạo?
PHẦN THỨ HAI – LÃNH ĐẠO TRONG GĐPT: Gia Đình Phật Tử là một đoàn thể xã hội, nhưng khác với mọi đoàn thể khác bởi lẽ GĐPT lấy tinh thần tự do, bình đẳng của đạo Phật làm nền tảng trong sự sinh hoạt – để có một cái nhìn tổng quan về GĐPT chúng tôi đã trích nêu trong tập luận khóa này những nét chính về GĐPT nhằm nêu lên những tính chất đặc thù của GĐPT, từ đó đặt vấn đề vai trò của người lãnh đạo trong GĐPT. Nếu nhìn dưới một góc độ nào đó, thì Người Huynh Trưởng GĐPT chính là Người Lãnh Đạo – vì bên cạnh chương trình tu học cho suốt một cuộc đời của người Đoàn Viên GĐPT là chương trình đào tạo, huấn luyện Trưởng các cấp để thăng tiến tổ chức, đó cũng là điểm khác nhau căn bản giữa đoàn thể GĐPT và các đạo tràng tu học khác của Phật Giáo. Cũng vì GĐPT là một tổ chức tự nguyện, không có quyền lực để áp chế người khác phải tuân hành theo những quyết định của mình, nên người Huynh tTrưởng phải biết tạo sự tin phục của mọi người khi đặt niềm tin nơi sự lãnh đạo của mình qua đạo hạnh, khả năng; và biết vận dụng Tứ Nhiếp Pháp trong công tác lãnh đạo, nhằm nhiếp hóa những ý tưởng của người khác cùng thống nhất với phương án, kế hoạch mà mình đưa ra để tạo thành một khối thống nhất trong hoạt động của tập thể.
PHẦN THỨ BA – Ý THỨC VÀ TẦM NHÌN: Trở về với hình ảnh con chim đầu đàn, với bổn phận và trách nhiệm đưa đàn tìm về nơi có nguồn sống, phần thứ 3 của luận khóa chúng tôi viết riêng về tầm nhìn của người Huynh Trưởng trại sinh Vạn Hạnh – Những người sau này sẽ là người lãnh đạo hay là thành viên của Ban Hướng Dẫn các cấp của GĐPTVN, đó là tầm nhìn của người lãnh đạo toàn quốc. Con đường trước mặt chính là xác định hướng đi của GĐPTVN, đó là mục đích và sứ mệnh GĐPTVN mà Đại Hội Huynh Trưởng GĐPTVN năm 1973 đã kiến lập, để thấy rằng mục đích của GĐPT là con đường giáo dục, tuy có thay đổi theo thời gian nhưng nó nói lên được sự phát triển của tổ chức, và sứ mệnh GĐPT là bảo vệ Đạo Pháp và Dân Tộc, với ý thức bảo vệ dân tộc, người Huynh Trưởng GĐPT không đứng trên một ý thức hệ tư tưởng, chủ nghĩa này để chống đối một ý thức hệ tư tưởng, chủ nghĩa khác, vì một học thuyết tư tưởng hay một chủ nghĩa nào nếu không thích hợp với lòng người, và tình người thì đương nhiên nó sẽ bị đào thải; nhận định rằng lập trường của GĐPT cũng như của Phật Giáo là luôn đứng về những con người đau khổ để nói lên sự khổ đau, điều mà bất kỳ chế độ chính trị nào nếu muốn mưu cầu cho đời sống dân tộc được an lạc, hạnh phúc, sẽ biết lắng nghe với một tinh thần trân trọng và thân thương.
Tầm mắt nhìn lên: nhìn về Giáo Hội và các thế hệ đàn anh, ở đây với một cái nhìn đan xen cho ta một quá trình lịch sử hình thành tổ chức và Giáo Hội để thấy rằng: Bản thân tổ chức GĐPT đã tự mình thống nhất, trước khi có sự thống nhất các hội đoàn Phật Giáo thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (1951), và GĐPTVN luôn đặt mình trong lòng Tổng Hội trước đây và các Giáo Hội Phật Giáo sau này. Các thế hệ đàn anh đã kiên trì lèo lái con thuyền GĐPT đi đúng tôn chỉ mục đích của GĐPT trước những mưu đồ nhằm biến GĐPT trở thành công cụ cho các thế lực; đồng thời cũng nói lên GĐPT đã vượt qua cái giới hạn của một phong trào chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn, tính cô đọng của một tổ chức trong một giai đoạn lịch sử nhất định để trở thành một thực thể trong cộng đồng xã hội, trong nếp sinh hoạt văn hóa của Phật Giáo Việt Nam. Vì vậy, dù có công nhận hay không công nhận, hợp pháp hay không hợp pháp – GĐPT vẫn tồn tại, bởi bất cứ xã hội nào cũng cần những con người mang tinh thần Bi-Trí-Dũng để xây dựng cuộc sống – cũng cần những chiếc “Áo Lam”.
Với cái nhìn về chính mình để nhìn lại thực trạng GĐPT hiện nay, nhận ra rằng hiện trạng phân rẽ của tổ chức chỉ là điều tất yếu trong một giai đoạn của lịch sử khi giáo quyền bị chi phối bởi thế quyền, sự phân rẽ là biểu hiện cho vết nứt của một thân cây phát triển thêm một nhánh mới.
Tầm mắt nhìn ngang về các đoàn thể thanh niên khác để thấy được sự hạn chế của GĐPT, thấy được mối duyên sinh cùng tồn tại trong một cộng đồng.
Cuối cùng, người lãnh đạo hôm nay nhìn về các thế hệ đàn em, những thế hệ Huynh Trưởng tương lai, những người nối tiếp dòng lam sử sẽ phán xét sự hoạt động của các thế hệ đàn anh.
Cuối cùng là phần kết luận. Chúng tôi nêu lên vấn đề người lãnh đạo trong trách nhiệm của mình phải biết tùy duyên mà vạch ra những kế hoạch hoạt động cho thích hợp, nhưng cần phải nhận định rõ trong sự sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử cái gì có thể thay đổi để gọi là tùy duyên, còn cái gì là bản chất không được thay đổi – vì nếu không phân biệt được điều này, Gia Đình Phật Tử sẽ chẳng còn là Gia Đình Phật Tử, trang sử Lam sẽ được đóng lại để tôn trọng công lao xây dựng của các bậc tiền nhân.
PHẦN THỨ NHẤT:
NGƯỜI LÃNH ĐẠO
I/ LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ HUY:
Thông thường, chỉ huy là người đứng đầu, điều khiển sự hoạt động một tập thể có tổ chức, có kỷ luật và có thể sử dụng tích cực những biện pháp kỷ luật đối với mọi thành viên, để đưa mọi người cùng hướng về sự thành công trong hoạt động của tập thể mà mình đứng đầu. Trách nhiệm về sự thành công hay thất bại trong hoạt động của người chỉ huy còn tùy thuộc vào người chỉ huy có thực hiện đúng theo sự chỉ đạo, phương án hoạt động của lãnh đạo cấp trên hay không? Ở đây, yếu tố kỷ luật được đề cao và được xác nhận bởi quyền lực của người chỉ huy – nên dù có phục hay không phục cá nhân người chỉ huy, những người trong tập thể ấy bắt buộc phải tuân thủ theo mệnh lệnh của cấp trên.
Trong khái niệm lãnh đạo thì đòi hỏi cao hơn người chỉ huy. Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức động viên thực hiện, nó đòi hỏi tính thuyết phục mọi người nhiều hơn là tính kỷ luật cần thiết để áp đặt mọi người trong công việc điều hành. Lãnh đạo là một nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều nơi phẩm chất và năng lực cá nhân người lãnh đạo để tạo ra niềm tin của mọi người – đó chính là nền tảng để người lãnh đạo điều hành sự hoạt động của một tổ chức, một đoàn thể. Người lãnh đạo tài giỏi là người biết biến ước mơ của mình thành ước mơ của mọi người, khiến mọi người hoạt động một cách tích cực và tự giác theo ý muốn của người lãnh đạo, nhằm đạt được mục đích chung của tổ chức.
Như vậy: Người lãnh đạo là người đứng đầu một tổ chức, một đoàn thể; trên cương vị đó, đòi hỏi nơi người lãnh đạo phải có năng lực điều hành và quyền hành để có thể đưa tổ chức ấy đạt đến mục đích mà tổ chức ấy đã đề ra.
Đứng đầu một tổ chức, một đoàn thể, người lãnh đạo đã là người thay mặt cho tổ chức, đoàn thể ấy chịu trách nhiệm về mọi hoạt động do đoàn thể đó gây ra, đồng thời nó cũng mang ý nghĩa là người đại diện cho quyền lực của đoàn thể ấy, để định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt tồn vong cũng như sức mạnh để bảo đảm cho việc thực hiện cái quyền lực mà mọi người đã công nhận trao phó cho người lãnh đạo.
Người lãnh đạo chịu trách nhiệm toàn bộ về những mặt hoạt động của đoàn thể mình, nên trong từng hoạt động cụ thể của một tổ chức, đoàn thể, có những bộ phận chuyên môn do những người am tường lãnh vực chuyên môn ấy đứng đầu, tham mưu, góp ý cho người lãnh đạo có thể vạch ra những kế hoạch, phương án hoạt động cho đoàn thể ấy một cách thích hợp. Những người chịu trách nhiệm về từng bộ phận cùng với người lãnh đạo hợp thành một tập hợp chủ chốt vạch ra phương hướng và điều hành đoàn thể gọi chung là Ban lãnh đạo.
2/ LÃNH ĐẠO VÀ QUYỀN LỰC:
Những quyết định của người lãnh đạo đều có ảnh hưởng đến toàn bộ sự sinh hoạt của đoàn thể, nó chi phối đến mọi thành viên trong tổ chức bởi quyền lực được xác định trên cương vị lãnh đạo.
Trong chính trị học có đề cập đến sự củng cố vương quốc Media thời xưa để nói lên nguồn gốc của quyền lực như sau: Người Media lúc đó sống trong những ngôi làng riêng biệt, khổ sở vì tình trạng mất trật tự, phải chịu sự nguy hiểm, và luôn luôn lo lắng cho tính mạng và tài sản mà họ có được. Nhu cầu của họ tạo nên một cơ hội cho Deioces, một người biết tôn trọng sự công bằng. Dân làng hay nhờ ông phân xử trong những sự xích mích, tranh chấp. Sự phân xử của ông đem lại cho họ những phán quyết được mọi người nhìn nhận là công bằng và hợp lý, ông được mọi người ca ngợi, dân các làng khác cũng tin tưởng và luôn nhờ ông phân xử vì họ không biết phải nhờ cậy ai ngoài ông. Khi đã tạo được cho mình một uy tín, ông tuyên bố không muốn tiếp tục công việc phân xử nữa, chẳng có lợi gì khi ông cứ mãi xét xử các cuộc xung đột mà phải xao lãng công việc của mình…
Tình trạng mất trật tự lại xảy ra. Mọi người hội họp bàn bạc và đưa đề nghị: Vì không thể sống trong tình trạng hỗn loạn, không có an ninh trật tự, nên phải chọn một người đứng đầu điều hành, lãnh đạo xứ sở – có như thế cộng đồng mới phát triển tốt được, mới làm ăn được. Và Deioces đã lên làm vua thay mặt cho cả cộng đồng đưa ra những phán quyết để giải quyết mọi công việc, đề ra những kế hoạch chung có lợi cho tất cả cộng đồng.
Trong quá trình phân xừ, đã xảy ra trường hợp nếu một bên không chấp hành sự phán quyết, ngang ngạnh chống lại người đã thay mặt cho cả cộng đồng đưa ra những quyết định? – Yêu cầu lại được đặt ra: Cần phải bắt buộc kẻ ấy phải thi hành để duy trì sự ổn định. Thế là cộng đồng chấp thuận cho Deioces được quyền chọn ra bất cứ người nào làm vệ sĩ cho ông, những người này sẽ thi hành những mệnh lệnh của ông để cưỡng chế những kẻ không tuân hành những phán quyết sau khi vấn đề được phân xử.
Khi quyền hành được thiết lập. Deioces ra lệnh cho dân chúng xây dựng cung điện có lính cầm giáo canh gác và đặt ra nghi lễ:
– Không ai được phép vào khu vực hoàng gia, hay gặp nhà vua – mọi công việc giải quyết phải qua sứ giả.
– Không ai được nhổ nước miếng hay cười đùa trước mặt vua.
Lý do khiến cho Deioces tạo nên quanh ông một nghi thức quan trọng như vậy là để tránh sự đụng chạm với những người bạn cũ, đã cùng sống, cùng làm việc và cũng can đảm như ông, vì nếu thấy ông thường xuyên, họ có thể ghen ghét địa vị và có thể sẽ tìm cách mưu toan chống đối, nhưng nếu không có dịp được thấy ông thường xuyên, họ vẫn có thể coi ông là một nhân vật khác thường…
Với nghi thức được ấn định, và uy quyền tuyệt đối của ông được củng cố, lúc đó ông mới bảo vệ vững chắc cho công lý, nếu biết kẻ nào hỗn xược, chống đối những phán quyết – ông cho gọi đến và trừng phạt tùy theo tội của họ – vì ông đã đặt gián điệp, những người chỉ điểm ở khắp nơi trên đất nước ông cai trị.
Câu chuyện về sự hình thành vương quốc Media không những nói lên ba yếu tố hình thành một quốc gia bao gồm: Dân tộc – Lãnh thổ – Chính quyền, mà nó còn chứa đựng những kiến thức chính trị về sự hình thành chính quyền, nguồn gốc của quyền lực, mối tương quan giữa quyền lực và người lãnh đạo.
Vì sống trong tình trạng hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật, không luật lệ, luôn tranh chấp bởi tình trạng “mạnh được yếu thua”, mọi người bị khổ nên mong ước giải quyết những việc tranh chấp bằng một phương pháp có thể đem lại sự hợp lý, trong những điều kiện được công nhận là công bằng. Họ tự nguyện tìm đến một người mà khả năng và tham vọng phù hợp với các nhu cầu của họ. Sau nhiều lần biết tài năng, thấy được kết quả mong muốn, họ tiếp tục tuân theo những phán quyết của người này. Và họ trở thành những người ủng hộ Deioces.
Ảnh hưởng của Deioces bao trùm lên cộng đồng trở thành quyền lực, và quyền lực này được mọi người chấp nhận, công nhận chính là quyền hành. Deioces được coi là người có thẩm quyền để thi hành luật pháp theo sự phán quyết của ông. Sự phán quyết này trước đây nếu được coi như tùy ý, các đối tượng liên quan có thể thực hiện hay không thực hiện cũng chẳng sao – thì nay đã trở thành bắt buộc mà kẻ kháng cự hay bất tuân sẽ gặp sự cưỡng chế.
3/ SỰ KHÁC NHAU GIỮA SỰ LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN QUỐC GIA VÀ LÃNH ĐẠO ĐOÀN THỂ XÃ HỘI:
Quốc gia bao gồm ba yếu tố: Dân tộc – Lãnh thổ – Chính quyền. Khi sinh ra, con người đã là công dân của một quốc gia, chịu sự điều hành của chính quyền, và mọi người bắt buộc phải có nghĩa vụ tuân thủ luật pháp của quốc gia ấy.
Mục đích của quốc gia hướng đến sự bảo vệ xã hội, duy trì trật tự cộng đồng và công lý, mục đích này nhằm ổn định đời sống xã hội – Quyền điều hành đất nước được trao cho chính quyền với hệ thống làm việc của các viên chức trong guồng máy chính quyền. Chính quyền điều hành đất nước bằng vũ lực, quyền lực, quyền hành. Khác với mọi đoàn thể khác, chính quyền được phép sử dụng vũ lực để cưỡng chế, bắt buộc mọi người phải tuân theo những quy định chung ghi nhận bởi luật pháp.
Ngay từ khởi thủy, ý niệm về quyền lực của một quốc gia đã bao hàm hai yếu tố vũ lực và sự thuận ý của người dân, của cộng đồng các dân tộc cùng sống trên một vùng lãnh thổ. Mặt khác, vũ lực và sự thuận ý cũng là hai yếu tố lập nên thước đo nền dân chủ của một đất nước. Với hình tượng: Vũ lực và sự thuận ý là 2 đĩa cân được đặt thăng bằng trên một cán cân quyền hành. Nếu cán cân nghiêng nhiều về vũ lực đã nói lên hiện tượng chính quyền có khuynh hướng độc tài, và nếu chiều nghiêng ngược lại lệch nhiều bên sự thuận ý, điều đó nói lên được sự kiện: Tại quốc gia ấy nền dân chủ được thực thi.
Nếu chính quyền là nơi duy nhất để người lãnh đạo được quyền sử dụng vũ lực để thể hiện quyền lực – thì quyền lực còn thể biểu lộ một cách vi tế hơn như trong một đoàn thể mà phạm trù hoạt động trong các lãnh vực có liên quan đến quyền lợi kinh tế hay đời sống chính trị của các thành viên, lúc đó thì quyền lực của người lãnh đạo dù không cần sử dụng đến vũ lực, vẫn ảnh hưởng lớn đến sự tuân thủ mọi người – bởi quyết định của người lãnh đạo đưa ra có tác động đến đời sống của mỗi thành viên. Và cũng chính vì quyền lợi này mà mọi người bắt buộc phải tuân thủ ý muốn của người lãnh đạo, dù họ có bằng lòng hay không, vì nếu không tuân thủ, có thể họ sẽ bi loại ra khỏi đoàn thể thì sẽ mất đi quyền lợi, ảnh hưởng đến đời sống.
Trong khi người lãnh đạo các cấp của chính quyền, hoặc người lãnh đạo các đoàn thể kinh tế, chính trị có phương tiện, áp lực, bắt buộc mọi người phải tuân thủ những quy định chung – thì người lãnh đạo một đoàn thể sinh hoạt thuần túy tự nguyện về văn hóa, giáo dục, xã hội – chỉ có thể đề ra những kế hoạch và nhiếp phục mọi người tuân thủ những quy định của đoàn thể đó, khiến mọi người thực hiện một cách tự giác, thay cho quyền lực tác động đến quyền lợi vốn là động cơ kết hợp của các thành viên.
Để đạt được điều đó, đòi hỏi người lãnh đạo đoàn thể phải có khả năng và đạo đức, khiến mọi người trong đoàn thể có thể đặt niềm tin nơi mình, tin tưởng sự điều hành tổ chức nơi tài lãnh đạo của mình – có thể đưa đoàn thể đạt đến mục đích mà mọi người mong muốn. Niềm tin ấy tạo nên quyền uy của người lãnh đạo đoàn thể xã hội.
4/ QUYỀN HÀNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐOÀN THỂ XÃ HỘI:
Trong xã hội, tồn tại nhiều hình thức đoàn thể, hội đoàn, tập hợp bởi những thành viên do khuynh hướng chính trị (đảng phái), nghề nghiệp (nghiệp đoàn), sở thích cá nhân (câu lạc bộ), tuổi tác, giới tính, tôn giáo tâm linh (đạo tràng, giáo xứ…), những đoàn thể xã hội này mang tính chất chính trị, quyền lợi hay nhu cầu về tinh thần như tôn giáo, tín ngưỡng, giải trí… Do đó, trong cuộc sống, mỗi người chúng ta thuộc nhiều đoàn thể, hoạt động trong nhiều đoàn thể mà động cơ tham gia hoặc do chính mình tự ý xin gia nhập hay vì hoàn cảnh bắt buộc.
Thuộc về một đoàn thể xã hội, có nghĩa là chúng ta đã thừa nhận rằng đoàn thể này có thể đòi hỏi ở chúng ta một vài hành động phù hợp với mục tiêu của đoàn thể mà ta tham gia, nghĩa là ta đã chấp nhận nơi ta một vài sự cố gắng, hy sinh nào đó để đoàn thể có thể đạt được mục đích mà mọi thành viên thuộc đoàn thể ấy đưa ra. Quyền lực của đoàn thể xã hội bắt nguồn từ đó và cũng từ đó sinh ra bổn phận của các thành viên.
Đối với các đoàn thể xã hội mang tính chất chính trị hay quyền lợi thì ở đó quyền lực thể hiện bởi những quyết định của người lãnh đạo có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, công ăn việc làm của các thành viên, nên việc điều hành các đoàn thể này tương đối thuận lợi cho người lãnh đạo; người lãnh đạo các đoàn thể ấy thường sử dụng quyền lực của mình để tạo áp lực tác động mọi người, vì dẫu sao áp lực về quyền lợi kinh tế hay chính trị vẫn đè nặng lên tâm lý cầu an của các thành viên. Thế nhưng đối với các đoàn thể tập hợp bởi nhu cầu về tinh thần, thì quyền hành của người lãnh đạo lại nghiêng nhiều về sự thuận ý của tập thể.
Các đoàn thể này không có vũ lực, hay quyền lợi để bắt buộc, cưỡng chế một thành viên phải chấp hành điều lệ của một đoàn thể, cũng như buộc mọi thành viên phải chấp hành, tuân thủ theo sự điều khiển của người lãnh đạo. Vì họ có thể từ khước không tham gia sinh hoạt nếu nhận thấy mục đích của đoàn thể ấy không còn thích hợp với mình nữa, hoặc cảm thấy bất mãn vì một điều gì đó nảy sinh trong quá trình sinh hoạt – Ngược lại, các đoàn thể xã hội này chỉ có thể khai trừ một thành viên ra khỏi đoàn thể – nếu họ vi phạm nghiêm trọng đến quy chế hay nội quy của đoàn thể ấy; là nhân tố gây mầm móng chia rẽ các thành viên; làm rạn nứt, suy vong tổ chức – hoặc lợi dụng danh nghĩa của đoàn thể làm những việc sai trái với đường lối, chủ trương chung của đoàn thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng.
Tuy không có vũ lực để điều hành sự sinh hoạt của đoàn thể, nhưng lợi điểm của người lãnh đạo một đoàn thể xã hội có nhu cầu tinh thần là tính tự giác, tự nguyện có sẵn trong mỗi một thành viên – bởi, khi tham gia nhập một đoàn thể để sinh hoạt – người đoàn viên vẫn thường mang tính chất tự nguyện, điều ấy có nghĩa là họ đã chấp nhận mục đích, tôn chỉ cùng những quy định chung của đoàn thể ấy, đó là những nôi quy, quy chế, hay nói đơn giản hơn đó là họ đã chấp nhận kỷ luật của một đoàn thể.
Cán cân quyền lực của người lãnh đạo của đoàn thể vì không có vũ lực hay áp lực tác động nên nghiêng hẳn về sự thuận ý của mọi thành viên. Do đó uy tín cá nhân đối với người lãnh đạo một đoàn thể là điều cần thiết. Uy tín ấy chính là uy lực và quyền lực của người lãnh đạo.
Để có thể nhiếp phục được mọi thành viên tin tưởng nơi mình, người lãnh đạo phải đề ra phương hướng hoạt động một cách có hiệu quả khiến mọi thành viên có thể chấp hành một cách tự giác. Và nếu cần, khi người lãnh đạo có một quyết định kỷ luật tác động đến một đối tượng nào đó, đối tượng ấy sẽ thọ nhận một cách tự nguyện và coi như đó là hậu quả do những hành vi sai trái của mình. Ngoài ra, bản thân người lãnh đạo phải có một nhân cách thật tốt mới có thể được mọi người tín phục chọn làm người thay mặt cho tổ chức, thay mặt cho tập thể những thành viên để giải quyết các vấn đề, các mối quan hệ liên quan đến tổ chức.
PHẦN THỨ HAI:
NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
GĐPTVN là một đoàn thể giáo dục thanh thiếu đồng niên, sinh hoạt trong xã hội. Đoàn Viên GĐPT bao gồm hai thành phần chính: Thành phần thay mặt tổ chức thực hiện mục đích của GĐPT gọi là Huynh Trưởng và thành phần nhận sự hướng dẫn, giáo dục là Đoàn Sinh.
Ban lãnh đạo của GĐPT theo hệ thống tổ chức có từng cấp độ: Cấp đơn vị là Gia Trưởng, các Liên Đoàn Trưởng điều hành hoạt động của Ban Huynh Trưởng Gia Đỉnh và sự sinh hoạt của toàn đơn vị. Cấp tỉnh là Trưởng Ban cùng toàn thể mọi thành viên trong Ban Hướng Dẫn, và trên cùng là Ban Hướng Dẫn Trung Ương với thành phần cơ cấu lãnh đạo như Ban Hướng Dẫn tỉnh. Mỗi cấp lãnh đạo của GĐPT chịu trách nhiệm theo chức năng, quyền hạn của mình để điều hành sự hoạt động của tổ chức theo đúng Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng do Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc đề ra.
Vì là một đoàn thể tự nguyện, mang tính chất giáo dục, các thành viên GĐPT tham gia, sinh hoạt không bị ràng buộc bởi lợi ích chính trị hay kinh tế, nên vai trò lãnh đạo trong GĐPT có những điểm khác biệt với mọi đoàn thể khác trong cộng đồng xã hội.
I/ VÀI NÉT CHÍNH YẾU VỀ GĐPTVN:
GĐPT là một tổ chức giáo dục được manh nha hình thành trong những năm 30 của thế kỷ XX từ những người có tâm huyết với đạo pháp và dân tộc, lấy đạo Phật làm nền tảng trong việc giáo dục thanh thiếu nhi, vì đạo phật thỏa mãn được hai điều kiện:
– Gắn liền với đời sống dân tộc.
– Với tinh thần Bi, Trí, Dũng – Đạo Phật có thể xây dựng được một hướng sống cho thanh niên.
Trải qua hai phần ba thế kỷ, với bao biến cố lịch sử, đổi thay của đất nước – GĐPT vẫn tồn tại, phát triển và ngày nay nó hiện hữu như một hình thức sinh hoạt đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam.
Với một quá trình sinh hoạt lâu dài, gắn bó với lịch sử đạo pháp và dân tộc. Có thể tóm lược được tinh thần của GĐPT như sau:
1. Thành phần sinh hoạt:
GĐPT là một tổ chức đại chúng. Với quá trình phát triển của mình, tổ chức GĐPT không chỉ thu gọn trong thành thị và được xây dựng bởi một lớp thanh niên trí thức của thập niên 30:
”Sắc lam đã tô thắm ruộng đồng hoang dã, sắc lam đã hòa nhịp với núi rừng cao nguyên và sắc lam cũng đã thoa dịu vàng son chói lọi chốn thị thành hoa lệ.
Bên cạnh ái nữ của một phụ mẫu chi dân là con của chị bán cháo nghèo nàn. Đứng trước một sinh viên đại học là anh chàng tay búa tay đe. Dưới lá cờ Sen Trắng tất cả đều trung thành với di chúc của Đức Từ phụ: ‘Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có sang hèn trong giọt nước mắt cùng mặn. Tất cả đều bình đẳng trước Như Lai’. Trong hàng ngũ áo lam, Đoàn Sinh không những tứ hải giai huynh đệ, mà còn là con chung một nhà”.
Với bản chất đại chúng như vậy, nên sinh hoạt trong GĐPT có đủ mọi thành phần trong xã hội, và là nơi quy tụ mọi lứa tuổi; vì vậy trong thời kỳ chiến tranh, Huynh Trưởng GĐPT có người là cơ sở cách mạng, có người phải tham gia vào bộ máy chính quyền, nhưng khi đến với GĐPT thì phải sống với cái mục đích thiêng liêng của tổ chức, vì GĐPT là một tổ chức giáo dục phi chính trị mang nặng tinh thần phụng sự cho Đạo Pháp và Dân Tộc. Những ai đến với GĐPT vì mưu lợi cá nhân, hay ý đồ chính trị sẽ không phù hợp và tự đào thải trước nụ cười hồn nhiên vô tư, trong sáng của các em Đoàn Sinh.
2. Điều hành – Tổ chức:
Hoạt động của GĐPT dựa trên nguyên tắc ”tập trung dân chủ: tập thể chỉ huy, cá nhân phụ trách”. Mọi dự án hoạt động đều do hội nghị Huynh Trưởng đề ra và Ban Hướng Dẫn điều hành, thực hiện. Không một cá nhân nào tự mình đi ngược lại với đề án của hội nghị. Mọi sinh hoạt của GĐPT đều nằm trong Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng mà mỗi lần tu chỉnh hay sửa đổi phải do Đại Hội GĐPTVN tiến hành.
Trong GĐPT, mỗi cá nhân đảm nhiệm trách vụ của mình đã được Đại Hội đề cử và thông qua. Trong mỗi giai đoạn khó khăn của tổ chức, thì Hội Đồng Huynh Trưởng các cấp theo quy chế của mình điều hành công việc.
3. Ý niệm thống nhất:
Các đơn vị GĐPT sinh hoạt dưới một mái chùa, dù ngôi chùa đó thuộc các Hội đoàn Phật Giáo nào thì GĐPT vẫn là một, vẫn thống nhất từ tinh thần đến hình thức, từ ý chí đến hành động.
Trong lịch sử của tổ chức, ngay từ năm 1951, khi vào tham dự Đại Hội GĐPT tại Huế, các đại biểu GĐPT Bắc Phần đã nhập chung vào một phái đoàn. Đại Hội năm 1961 tại Xá Lợi, các GĐPT thuộc Giáo Hội Tăng Già và Việt Nam Phật Giáo Bắc Phần di chuyển vào Nam tham gia Đại Hội đã đề cử một phái đoàn chung và cùng bầu một Ban Hướng Dẫn chung cho GĐPT toàn quốc nằm trong hệ thống Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Năm 1964, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Gia Đình Phật Tử ở các Hội đoàn, Tông chi, Giáo hệ Phật Giáo khác nhau, kể cả các Gia Đình miền Vĩnh Nghiêm đều tự đặt mình trong sự hướng dẫn của Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN.
4. Đường lối sinh hoạt:
Mục đích của GĐPT là giáo dục thể hiện qua các phương pháp dựa trên nền tảng giáo lý Phật Giáo, nên tổ chức GĐPT là tổ chức giáo dục phục vụ cho con người, dân tộc, đạo pháp và chúng sanh với lập trường phi chính trị. Do đó từ ngày thành lập cho đến nay nó không để nhuốm màu sắc chính trị, đảng phái, và nhất là nó không thể trở thành công cụ của bất kỳ thế lực nào, phe nhóm hay một cá nhân nào. Luôn đặt mình trong sự tồn vong của Đạo Pháp và Dân Tộc, vì thế mà GĐPT đã vượt qua được những tranh chấp quyền lực của xã hội Miền Nam Việt Nam trước đây để tồn tại cho đến ngày nay; và cũng vì vậy mà GĐPT luôn gặp những khó khăn trở ngại, nhưng đã nói lên được sự trong sáng cho mục đích giáo dục của GĐPT.
5. GĐPT là một thực thể trong cộng đồng Xã Hội – Dân Tộc – Đạo Pháp:
Với một số lượng lớn Đoàn Viên đã và đang sinh hoạt trên khắp mọi miền đất nước và rải rác khắp nơi trên thế giới, GĐPTVN hiển nhiên đã trở thành một thực thể trong cộng đồng xã hội, trong đời sống dân tộc và trong sự sinh hoạt của đạo pháp. Do đó dù mọi chính quyền nào hay Giáo Hội Phật Giáo nào, công nhận nó hay không, nó vẫn tồn tại và hiện hữu dưới hình thức này hay hình thức khác, ở nơi này hay nơi khác, vì trong trái tim của từng thế hệ Huynh Trưởng GĐPTVN – những người đã phát nguyện với chính lòng mình, đã thọ lãnh cấp theo khả năng tu học của mình, nguyện hiến dâng trọn đời mình cho Lý Tưởng.
Năm tính chất trên, đã cho chúng ta cái nhìn tổng quát về GĐPT. Tính chất này tạo nên mạch sống của GĐPTVN, truyền thừa cho mỗi thế hệ Huynh Trưởng, khiến mạch Đạo được truyền lưu bất diệt.
Chỉ đơn thuần là một đoàn thể với lý tưởng phụng sự đạo pháp và con người qua khía cạnh văn hóa, giáo dục, xã hội – người Đoàn Viên GĐPT khi đến với tổ chức đều mang tính chất tự nguyện. Do đó Huynh Trưởng GĐPT sinh hoạt không phải vì danh lợi, quyền hành mà chính vì họ đã chọn mục đích chung của tổ chức làm lý tưởng cuộc đời, lấy Nội quy, Quy Chế làm kim chỉ nam để tu dưỡng bản thân và thăng tiến tổ chức.
II/ LÃNH ĐẠO – QUYỀN LỰC – UY QUYỀN TRONG GĐPT:
Từ thực tế đời sống cộng đồng của Tăng đoàn, Đức Phật đặt ra 6 nguyên tắc sống chung hòa hợp, nên pháp Lục Hòa có một giá trị thiết thực, dù đã được áp dụng cách đây hơn 2.500 năm trong đoàn thể Tăng sĩ nhưng ngày nay pháp Lục Hòa có thể áp dụng cho cả đời sống gia đình vì nó đem lại hạnh phúc và tiến bộ. Hơn thế nữa, nếu đem áp dụng vào đời sống cộng đồng trong một quốc gia, ta có thể xây dựng được một xã hội nhân bản, tự do và bình đẳng. Sống theo tinh thần giáo pháp của Đức Phật truyền dạy, GĐPT lấy Lục Hòa làm nguyên tắc chính trong đời sống tập thể, áp dụng trong mọi cấp sinh hoạt, từ cấp đơn vị là Gia Đình cho đến sinh hoạt của Ban Hướng Dẫn tỉnh và ngay cả cấp lãnh đạo cao nhất của tổ chức: Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN. Sáu nguyên tắc ấy phản ảnh lên vai trò lãnh đạo trong GĐPTVN:
– Thân hòa đồng trú: Cùng chia sẻ với nhau một hoàn cảnh sinh hoạt, mọi thành viên phải biết chấp nhận hoan hỷ sự có mặt của nhau.
– Khẩu hòa vô tránh: Giữ gìn lời nói từ tốn, nói những lời xây dựng, bồi đắp, không gây chia rẽ, không làm tan rã đoàn thể.
– Ý hòa đồng duyệt: Chia sẻ cho nhau những ý kiến. Những ý kiến này có thể trái chống nhau, nhưng mọi thành viên phải biết cởi mở lắng nghe với tinh thần phá chấp để có thể hiểu được quan điểm của nhau, biết dung hòa những ý kiến khác nhau để chấp nhận nhau, sống an vui với nhau.
– Giới hòa đồng tu: Cùng học tập và gìn giữ với nhau những điều đã được chấp nhận như là nguyên tắc hướng dẫn đời sống cộng đồng.
– Kiến hòa đồng giải: Chia sẻ, bổ xung những kiến thức cho nhau để cùng nâng cao trình độ hiểu biết chung của tập thể.
– Lợi hòa đồng quân: Cùng san sẻ trách nhiệm để bồi đắp, thăng hoa tổ chức.
Với tinh thần tự do bình đẳng của đạo Phật, mọi kế hoạch sinh hoạt, đường lối hoạt động đều được tập thể xây dựng và thông qua: từ kế hoạch sinh hoạt trong một năm của đơn vị Gia Đình cho đến phương án hoạt động của các Đại Hội Huynh Trưởng các cấp. Ngay cả các thành viên trong Ban Hướng Dẫn cũng đều do Đại Hội Huynh Trưởng suy cử. Tinh thần Lục Hòa của đạo Phật không chấp nhận sự chỉ đạo, hay chấp nhận việc áp đặt từ một thế lực nào đến để lãnh đạo tổ chức.
Do đó tinh thần lãnh đạo của GĐPTVN là tinh thần: Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập thể lãnh đạo, là lãnh đạo theo đường lối, theo phương án chung của tập thể, được xây dựng từ Đại Hội Huynh Trưởng GĐPT. Cá nhân phụ trách, là người chịu trách nhiệm điều hành, vạch kế hoạch thực hiện theo đường hướng chung đó.
Cũng từ phương án hoạt động ấy, các thành viên của Ban Hướng Dẫn, do Đại Hội Huynh Trưởng bầu cử dựa trên đạo hạnh, khả năng và tinh thần phụng sự của mỗi thành viên, nhận trách nhiệm liên quan đến phần việc chuyên môn mình phụ trách, soạn thảo kế hoạch thực hiện và chịu trách nhiệm trước toàn Ban Hướng Dẫn. Cuối cùng và trên hết là Trưởng Ban, người lãnh đạo chịu trách nhiệm về mọi hoạt động và phát triển tổ chức GĐPT.
Quyền lực trong GĐPT hiển nhiên được hình thành ngay khi nó trở thành một đoàn thể có tổ chức, có sự phân công trách nhiệm; xét về bản chất, bất cứ một đoàn thể xã hội nào cũng có quyền lực, đó là điều tất yếu, bởi con người không phải chỉ có ý thức hướng theo lẽ phải, có tính hợp quần, mà còn vì sự sinh tồn của đoàn thể mà mình tham gia đó trong cộng đồng xã hội.
Tham gia một đoàn thể, đòi hỏi nơi mỗi thành viên các nghĩa vụ mà đoàn thể yêu cầu, và nghĩa vụ chỉ có tính cách cưởng bách đối với con người chịu quy phục dưới quyền lực. Thế nhưng quyền lực này không phải là kiềm chế, cưỡng bách đối với thành viên khi tham gia vào đoàn thể đó, con người có thể hài lòng khi phục vụ cho mục đích của đoàn thể mà họ tham gia, bởi những khát vọng, ước mơ của họ sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ hoạt động một cách riêng lẻ.
Đoàn Viên GĐPT khi phát lời thệ nguyện để đứng vào hàng ngũ Huynh Trưởng, có nghĩa là bản thân cá nhân đã chấp nhận quyền lực của tổ chức, chấp nhận bổn phận và trách nhiệm mà tổ chức trao phó, thể hiện qua bản Nội Quy, Quy Chế của GĐPT. Thực chất bản Nội Quy, Quy Chế là sự phản ảnh mục đích của đoàn thể, cũng là ước mơ của mọi Đoàn Viên GĐPT nói chung, đồng thời cũng là lý tưởng ước mơ của cá nhân người Huynh Trưởng đó. Bản Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng còn nói lên tính tổ chức, với sự phân chia cấp bậc, chức vụ, với những chức năng, quyền hạn – phản ánh một trật tự ấn định bởi hệ thống các cấp của GĐPT. Sự phân chia đẳng cấp ấy đã xác định hiện tượng uy quyền của tổ chức.
Trong GĐPT, bản Nội Quy, Quy Chế do Đại Hội Huynh Trưởng kiến lập, các chức vụ lãnh đạo do Đại Hội suy cử nói lên tính tập thể của tổ chức – cho nên mỗi thành viên Huynh Trưởng phải tôn trọng những điều đã quy định trong bản Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN, và đó cũng là cơ sở pháp lý, là sự thuận ý của tập thể, minh định quyền lực trong GĐPT. Khi quyền lực được tôn trọng thì uy quyền của lãnh đạo được xác nhận trên nguyên tắc: cấp dưới phải phục tùng chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong tinh thần tự giác – đó chính là tính kỷ luật của GĐPT.
Chính vì thế mà không thể chấp nhận tính vô kỷ luật của một Huynh Trưởng trong đoàn thể GĐPT, vì tổ chức GĐPT là tổ chức tự nguyện, vô vụ lợi – Trước Tam Bảo, bản thân người Huynh Trưởng đã tự phát lời thệ nguyện với chính mình, để làm Huynh Trưởng của GĐPT, là đã chấp nhận bản Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng. Người Huynh Trưởng GĐPT vô kỷ luật là đã tự mình rời bỏ tổ chức, từ chối cái điều mà mình gọi là lý tưởng, từ bỏ cái tự do mà mình đã chọn lựa khi bước chân vào hàng ngũ Huynh Trưởng.
Hành vi nhân tính của một con người bao gồm hai yếu tố: Ý thức và Tự do. Vì khác với mọi loại sinh vật khác sống theo bản năng sinh tồn, con người có quyền trước sự chọn lựa: đón nhận hay từ chối những quyền lợi vật chất, những ưu đãi do người khác mang đến, khi ý thức rằng điều đó xúc phạm đến nhân cách và lòng tự trọng của mình. Người Huynh Trưởng trước khi phát nguyện đã ý thức con đường mà mình đã chọn để rồi phát nguyện trước Tam Bảo, trước các thế hệ Huynh Trưởng đàn anh phụng sự cho tổ chức, cho mục đích của GĐPT, chính là con đường đã do mình tự chọn, đồng thời cũng là tự nguyện thừa nhận rằng GĐPT có thể đòi hỏi ở mỗi Huynh Trưởng một vài hành động phù hợp với mục đích giáo dục của tổ chức, nghĩa là đã chấp nhận tính kỷ luật trong GĐPT. Nói theo Người Áo Lam trong Sứ Mệnh GĐPT: “Tự do chính là tự mình chọn cho mình một thứ kỷ luật”.
Và ngược lại, trên cương vị lãnh đạo, người giữ uy quyền trong GĐPT được mọi người tín nhiệm, trao quyền lực để điều hành tổ chức, không thể vì ý thức cá nhân làm tác hại đến tổ chức. Uy quyền hay quyền lực của một người lãnh đạo trong GĐPT chỉ được mọi người nhìn nhận khi người lãnh đạo có đủ đạo hạnh, khả năng và tinh phần phụng sự cho tổ chức.
III/ HUYNH TRƯỞNG GĐPT – NGƯỜI LÃNH ĐẠO:
Huynh Trưởng GĐPT là thành phần thay mặt tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện mục đích của tổ chức qua đối tượng giáo dục là Đoàn Sinh. Cho nên khi phát nguyện làm Huynh Trưởng – có nghĩa là người Huynh Trưởng đã đứng trên cương vị một người làm công tác giáo dục, nhưng khác với người Giáo Viên trên bục giảng truyền thụ tri rhức, hay người thầy Chủ Nhiệm chỉ chiụ trách nhiệm hướng dẫn học sinh ở một vài năm trong nhà trường, người Huynh Trưởng GĐPT còn gắn bó với Đoàn Sinh trong mọi lãnh vực sinh hoạt để hướng dẫn các em trong suốt thời ấu thơ cho đến khi trưởng thành, được nhìn thấy các em từng bước trường thành theo năm tháng, và còn nhìn thấy được sự phát triển của hột giống Bồ-đề mà minh đã gieo trồng trong tâm hồn trẻ.
Nếu nhìn trên góc độ đó, thì người Huynh Trưởng GĐPT chính là người lãnh đạo, và tùy theo cấp bậc đã thọ nhận mà phạm trù trách nhiệm nhận lãnh sẽ nhiều hay ít. Nếu là một Đoàn Trưởng sinh hoạt trực tiếp với các em trong Đoàn, thì người Huynh Trưởng sẽ mang nhiều nét là người chỉ huy. Trong khi ở vai trò Liên Đoàn Trưởng thì đòi hỏi nhiều nơi người Huynh Trưởng nghệ thuật phối hợp giữa lãnh đạo và chỉ huy, vì Liên Đoàn Trưởng là người điều hành Ban Huynh Trưởng đơn vị và vạch kế hoạch sinh hoạt cho Gia Đình, theo đúng Nội Quy, Quy Chế của tổ chức.
Nét chỉ huy ở một Đoàn Trưởng trong GĐPT, ngoài nghệ thuật điều khiển cũng đòi hỏi không ít khả năng lãnh đạo. Vì là một đoàn thể giáo dục mang tính chất tự nguyện tự giác, nên khi các em đến sinh hoạt, người Đoàn Trưởng cũng phải biết hướng sự hoạt động của các em trong Đoàn sinh hoạt, tu học một cách tự giác để thực hiện mục tiêu giáo dục mà tổ chức GĐPT trao phó.
Nhưng dù ở trên cương vị nào của tổ chức, thì Huynh Trưởng GĐPT phải là người có đạo hạnh và khả năng. Đó là hai yếu tố chính của người Huynh Trưởng lãnh đạo để nhiếp phục mọi người và Đoàn Sinh đặt niềm tin nơi mình, thay cho quyền lực mang tính chất áp chế bắt mọi người phải tuân theo.
1. NHÂN CÁCH NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG:
Đời sống người Huynh Trưởng phải phản ảnh được mô hình con người lý tưởng mà mục đích của GĐPT muốn đào luyện. Nhân cách đó thể hiện qua cách ăn ở, đời sống và quan hệ giao tiếp trong cộng đồng xã hội (đời sống, ngôn ngữ, việc làm). Sự thể hiện này phải là sự biểu hiện từ nơi phẩm chất đạo đức của người con Phật được xây dựng trên tinh thần Ngũ Giới, đó chính là nền tảng đạo hạnh của người Huynh Trưởng.
Giới là những điều ngăn cấm mà Đức Phật đặt ra từ những sinh hoạt thực tế của Tăng đoàn khi Đức Phật còn tại thế, nhằm ngăn ngừa điều ác, tăng trưởng điều lành – thống nhất với mục đích Giác Ngộ và Giải Thoát của đạo Phật. Khác với mọi tôn giáo, hay giáo phái khác – những điều răn cấm được xây dựng từ niềm tin mặc khải nơi thần thánh hay ý thức suy luận, thì Đức Phật chỉ chế ra giới trong những hoàn cảnh thực tế vào những năm về sau, khi trong hàng ngũ đệ tử được Phật tiếp nhận có những người căn cơ còn kém, để giúp cho họ trong việc tu tập. Giới trong đạo Phật ngoài mục đích giúp cho người tu tập phòng hộ về thân, khẩu, ý nhằm hướng đến sự giải thoát; giới – căn bản là Ngũ Giới cón có tác dụng lớn đến việc xây dựng nhân cách con người qua tư tưởng, lời nói, hành động, nó chính là những tiêu chuẩn đạo đức vượt không gian và thời gian, giúp con người trong việc rèn luyện nhân cách xứng đáng với danh nghĩa làm người ở bất cứ thời đại nào của xã hội – đồng thời nó cũng là căn bản nguồn hạnh phúc của gia đình và nếp sông văn minh của xã hội. Do đó, nếu mục đích tối thượng của mọi nền giáo dục chính là việc rèn luyện nhân cách con người, thì việc xây dựng nhân cách con người trên căn bản Ngũ Giới là nền tảng trong việc đào luyện trở thành người Phật Tử chân chính.
Huynh Trưởng GĐPT vừa là người giáo dục lại cũng là tự giáo dục, tự rèn luyện hoàn thiện nhân cách cho chính mình, vì phẩm chất đạo đức của cá nhân người Huynh Trưởng là yếu tố then chốt khiến mọi người đặt niềm tin nơi tổ chức GĐPT khi gởi con em đến sinh hoạt, và là yếu tố căn bản nơi người lãnh đạo để có thể tạo nên sự tin phục của mọi thành viên trong một đoàn thể mang tính chất giáo dục.
Nhân cách lãnh đạo của người Huynh Trưởng còn được thể hiện ở:
– Lòng nhân ái – khoan dung độ lượng.
– Tính khiêm nhường – tôn trọng nhân phẩm của kẻ khác.
– Phong cách của người lãnh đạo – từ cử chỉ, lời nói, việc làm phải toát ra được những điều luật của GĐPT mà mình đã xưng tán trong những buổi lễ Phật.
Nhân cách người Huynh Trưởng GĐPT không phải xuất phát từ mối quan hệ ràng buộc giữa cá nhân và tổ chức hay cá nhân và mọi người trong cộng đồng xã hội, mà nó phải được xuất phát từ niềm tin sâu xa nơi giáo pháp của Đức Phật, được xây dựng trên nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật Giáo, thể hiện tinh thần giải thoát, bình đẳng và từ bi trong đạo Phật. Do đó, nhân cách, đạo đức của người Huynh Trưởng không phải chỉ là hình thức che đậy bên ngoài, nhằm thực hiện những mưu đồ cá nhân mà chính là sự thể hiện nơi bản chất của người con Phật.
2. KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO:
Người Huynh Trưởng GĐPT không những chỉ có đạo hạnh, mà còn đòi hỏi khả năng lãnh đạo. Nếu chỉ có đạo hạnh, người Huynh Trưởng ấy có thể chỉ đơn thuần là một Cư Sĩ, tu học như bao đạo tràng tu học khác trong các tổ chức hội đoàn của Phật Giáo. Với yêu cầu cao hơn, trong chương trình tu học của GĐPT ngoài phần tu học tự thân còn có phần huấn luyện để thăng tiến cho tổ chức, ở mỗi một độ tuổi, một Ngành sinh hoạt trong GĐPT đều có các trại trường huấn luyện đào tạo người lãnh đạo: Từ Tuyết Sơn đào tạo Đầu Thứ Đàn, Anoma – Ni Liên đào tạo Đội, Chúng Trưởng cho các Ngành Thiếu và Thanh. Khi lên hàng ngũ Huynh Trưởng thì cả một hệ thống trại trường đang chờ đón người Huynh Trưởng để rèn luyện khả năng lãnh đạo: Lộc Uyển – A Dục – Huyền Trang – Vạn Hạnh.
Nếu mục đích của các trại Lộc Uyển, A Dục nhằm đào tạo người Đoàn Phó và Đoàn Trưởng, nhận trách nhiệm điều hành một Đoàn, sinh hoạt trực tiếp với đối tượng được giáo dục là Đoàn Sinh, thì trại Huyền Trang nhắm đến việc đào tạo Liên Đoàn Trưởng, chịu trách nhiệm thịnh suy cả một Gia Đình – đơn vị căn bản trong hệ thống tổ chức GĐPT – lại đòi hỏi nhiều trong khả năng lãnh đạo. Giống như mô hình tổ chức xã hội lấy gia đình là một đơn vị tế bào; lấy một đơn vị GĐPT sinh hoạt dưới một mái chùa làm nền tảng trong hệ thống tổ chức, người Liên Đoàn Trưởng là người trực tiếp chịu trách nhiệm về sự thịnh suy đó. Trên danh nghĩa, đứng đầu Gia Đình là Bác Gia Trưởng, nhưng vì Gia Trưởng có thể chỉ là một vị Cư Sĩ có tinh thần yêu trẻ, mến đường lối, phương pháp và tán thành mục đích của GĐPT, có uy tín, là có thể trở thành người đứng đầu một đơn vị; và tổ chức GĐPT chưa có những khóa học chính thức nào để đào tạo người Gia Trưởng lãnh đạo một đơn vị Gia Đình, nên trên thực tế sự thịnh suy của một đơn vị Gia Đình lại là trách nhiệm của Liên Đoàn Trưởng, vì trong tiến trình tu học và thọ nhận cấp, Liên Đoàn Trưởng là ngưởi đã trải qua các trại huấn luyện, đào tạo tại các trại trường để trở thành người lãnh đạo.
Qua 70 năm sinh hoạt, với từng thế hệ Huynh Trưởng nối tiếp, truyền thừa, ngày nay đa số vai trò lãnh đạo của người Gia Trưởng đều do những Huynh Trưởng lớn tuổi nhận lãnh, đó là một thuận lợi lớn của GĐPT, nói lên sự phát triển của tổ chức. Tập thể Ban Huynh Trưởng Gia Đình đã là môt khối thống nhất về ý chí, tư tưởng, hành động.
Trên cương vị đó, để lãnh đạo một Gia Đình, đưa Gia Đình phát triển theo đúng Nội Quy, Quy Chế, người lãnh đạo ở cấp đơn vị nói riêng hay tổng quát hơn là ở bất kỳ vị trí nào trong tổ chức GĐPT phải có khả năng lãnh đạo, thể hiện ở:
– Óc quyết đoán, sáng tạo, thực tế: Mọi kế hoạch sinh hoạt, phát triển của Gia Đình trong một năm đều do Ban Huynh Trưởng hội thảo đúc kết, Gia Trưởng và Liên Đoàn Trưởng là người thúc đẩy sự hoạt động theo kế hoạch đã đề ra. Nguyên tắc tâp trung dân chủ trong GĐPT: Tập thể chỉ huy, cá nhân phụ trách không có nghĩa là đặt người lãnh đạo trong thế bị động để rồi hoàn toàn không chiụ trách nhiệm vì đó là của tập thể. Người lãnh đạo GĐPT cấp đơn vị là người được sự ủy nhiệm của tổ chức, là người trực tiếp được Phụ Huynh Đoàn Sinh trao gởi con em mình khi đến với tổ chức, do đó việc vạch phương án sinh hoạt, cũng như việc điều hành tập thể Ban Huynh Trưởng Gia Đình đòi hỏi nơi người lãnh đạo cấp đơn vị phải có cái nhìn thực tế, tính sáng tạo thích nghi với môi trường sinh hoạt tại nơi trú xứ, nhưng đồng thời lại đòi hỏi sự quyết đoán trong đường lối sinh hoạt để đơn vị Gia Đình phát triển đúng hướng theo tôn chỉ, mục đích của tổ chức. Không thể để sự sinh hoạt GĐPT trở thành một đạo tràng mang tính chất trang trí cho tự viện, hay là công cụ để tạo uy tín cho bất kỳ một cá nhân nào. – Hơn 60 năm phát triển và tồn tại cùng với đạo pháp và dân tộc, quý Chư Tôn Đức trụ trì đã từng quan tâm đến tiền đồ của đạo pháp hẳn cũng biết tính trong sáng, tính độc lập, tự chủ của GĐPT, hiểu về mục đích, đường lối sinh hoạt của GĐPT sẽ tôn trọng và cảm thông với sự sinh hoạt của GĐPT.
– Trầm tĩnh, tự chủ: Nếu hoạt bát, nhanh nhẹn, sinh động là nét nổi bật của người Huynh Trưởng cấp Đoàn, tạo nên sự lôi cuốn hấp dẫn tuổi trẻ đến với GĐPT, khiến GĐPT không già cỗi trong sinh hoạt, thì trên cương vị lãnh đạo, lại đòi hỏi người Huynh Trưởng nhiều nơi tính trầm tĩnh và tự chủ. Luôn bình tĩnh trước mọi vấn đề để tìm ra phương án hiệu quả nhất giải quyết công việc, người lãnh đạo phải biết làm chủ trái tim mình, và làm chủ được bản thân mình trước khi đưa ra một quyết định, vì mọi sự quyết định từ nơi người lãnh đạo đều có tác động đến tập thể. Trầm tỉnh, tự chủ, sáng tạo luôn là phẩm chất cần có của người lãnh đạo. Người lãnh đạo GĐPT hãy quán tưởng đến hình tượng Đức Phật ngồi yên lặng dưới cội bồ-đề, sẽ bắt gặp một ánh mắt đầy tình thương và trí tuệ, một nụ cười trầm tĩnh mà oai hùng, và nhớ rằng Ngài là một trong số rất ít những vị lãnh tụ tư tưởng gặt hái được sự thành công, được mọi người tôn kính ngay khi còn đang sống. Một Khổng Tử của Trung Hoa suốt cuộc đời phải rong ruỗi từ nơi này sang nơi khác và tư tưởng chỉ tỏa sáng khi có ngọn lửa của các vị đệ tử như Trang Tử, Mạnh Tử châm vào. Một Jésus của Trung Đông chịu đóng đinh trên thập tự giá và tư tưởng của Ngài chỉ được lan toả bởi các thánh tông đồ. Hay cận đại là cuộc đời Kark Mark – ông tổ của duy vật biện chứng chỉ được nhân loại biết đến qua hành động của người đệ tử Leninne.
– Nhìn xa – hiểu rộng – biết dùng người hợp với khả năng: Từ tính chất đại chúng của Gia Đình Phật Tử: “là nơi quy tụ mọi thành phần trong xã hội”, nên Huynh Trưởng GĐPT đến sinh hoạt trong một đơn vị Gia Đình sẽ có những nhận thức và quan điểm khác nhau khi giải quyết một vấn đề, khó có thể tránh được những mâu thuẫn phát sinh, nên đứng đầu, người lãnh đạo phải biết dung nhiếp mọi ý kiến của từng Huynh Trưởng để rồi vạch ra một phương án thích hợp được mọi người chấp nhận, thi hành.
Biết hóa giải được những mâu thuẫn cá nhân để Ban Huynh Trưởng Gia Đình là một khối đoàn kết gắn bó.
Biết năng lực cá nhân, hoàn cảnh của mỗi thành viên của Ban Huynh Trưởng để phân công thích hợp với mỗi công việc đòi hỏi. Việc dùng người đúng với khả năng thích hợp là điều cần thiết cho sự phát triển của đơn vị. Người lãnh đạo đơn vị phải biết phân công trách nhiệm thích hợp cho từng Huynh Trưởng.
– Năng lực điều hành: Để thực hiện một công việc, người lãnh đạo phải biết tổ chức công việc khoa học hợp lý, phải xác định được mục đích của công việc đặt ra có thể đạt được hiệu quả (cứu cánh); cách thức đạt đến mục tiêu của hành động với các kế hoạch thực hiện, người thực hiện; thời gian, địa điểm, công cụ hỗ trợ thích nghi (phương tiện). Phải biết dự kiến, tiên liệu trước được những tình huống có thể xảy ra, cùng những cách thức giải quyết. Các phương pháp kiểm tra, nhận định đánh giá.
Khả năng lãnh đạo đó, không những chỉ dành riêng cho người lãnh đạo cấp đơn vị mà còn ở trên mọi cương vị lãnh đạo của tổ chức GĐPT hay của bất cứ đoàn thể nào.
3. TỨ NHIẾP PHÁP TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO:
Nhiếp phục được mọi thành viên tin tưởng nơi sự lãnh đạo của mình qua nhân cách đạo đức, qua năng lực điều hành, điều đó cũng chưa đủ cho một nhà lãnh đạo GĐPT, vì từ trong bản chất, tổ chức GĐPT đã khác hẳn với mọi tổ chức khác trong xã hội: bởi tính chất tự nguyện, tự giác của mỗi thành viên khi đến với tổ chức; vì tán thành mục đích, lý tưởng GĐPTVN vô vụ lợi; bởi mối liên kết thâm sâu vì cùng chung tín ngưỡng; và nhất là có cùng một nhân sinh quan, vũ trụ quan của đạo Phật làm nền tảng tư tưởng, lấy lời Phật dạy (Lục Hòa) làm nguyên tắc cho cuộc sống đoàn thể – nhưng vì nghiệp lực của mỗi cá nhân mà trong cuộc sống hiện tại biến hiện qua tính cách, đời sống của mỗi một con người khác nhau lại cùng sinh hoạt chung trong một tổ chức, người lãnh đạo GĐPT muốn tạo sự thuyết phục của mọi thành viên thì ngoài đạo hạnh và khả năng cá nhân còn phải biết vận dụng Tứ Nhiếp Pháp trong công tác lãnh đạo để tạo sự cảm thông, biến được ước mơ của mình thành ước mơ của mọi người, mục đích hành động của mình trở thành hành động của mọi người, từ đó mà trong trách nhiệm phân công, mỗi Huynh Trưởng thành viên sẽ thực hiện bằng chính tâm nguyện của mình để phụng sự cho tổ chức.
Tứ Nhiếp Pháp chính là chìa khóa để đi vào cánh cửa của nghệ thuật lãnh đạo, bởi lẽ Tứ Nhiếp Pháp, là 4 phương pháp nhiếp phục và cảm hóa mọi người quay về với Chánh Pháp, nó còn được xem lá 4 nguyên tắc giúp cho người lãnh đạo nhiếp phục quần chúng để mọi người có thể đồng cảm, chung sức với người lãnh đạo bằng sự gần gũi, thân cận (Đồng Sự); chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm tu tập, san sẻ những gì có thể được qua tài vật của mình (Lợi Hành); bằng lời nói chân thành, trung thực, hóa giải những vấn nghi vốn là nguyên nhân gây nên mọi hiền khích dẫn đến sự chia rẻ của đoàn thể (Ái Ngữ); biết đem đến cho mọi người không những chỉ là vật chất còn là niềm an lạc, hạnh phúc, không sợ hãi trong cuộc sống đời thường (Bố Thí). Sự nhiếp phục và cảm hóa mọi người bằng Tứ Nhiếp Pháp xuất phát trên tinh thần lợi tha và lòng từ bi của người con Phật, vận dụng trên tinh thần khế lý, khế cơ, tùy duyên bất biến của đạo Phật.
PHẦN III:
TẦM MẮT NGƯỜI LÃNH ĐẠO GĐPT TOÀN QUỐC
Đối với Huynh Trưởng GĐPTVN, từ trong chương trình tu học và huấn luyện đã phải rèn luyện để trở thành một nhà lãnh đạo, tuy nhiên tùy theo bậc tu học và cấp độ huấn luyện của từng trại mà phạm vi lãnh đạo có giới hạn. Nếu trại trường Lộc Uyển là bước ngoặc đầu tiên để người Huynh Trưởng tập sự chính thức bước vào hàng ngũ Huynh Trưởng với lời phát nguyện trong đêm truyền Vô Tận Đăng thì vai trò lãnh đạo chỉ là người phụ tá cho Đoàn Trưởng trong trách nhiệm người Đoàn Phó, Ở trại huấn luyện A Dục, tinh thần lãnh đạo được xác định rõ rệt trong vai trò người Đoàn Trưởng chịu trách nhiệm về sự sinh hoạt của một Đoàn trong đơn vị. Vai trò lãnh đạo ấy ở cấp Huynh Trưởng đầu tiên còn sự phối hợp giữa nghệ thuật chỉ huy như tinh thần huấn luyện của trại, thì ở Huyền Trang vai trò lãnh đạo được khẳng định trên cương vị một Liên Đoàn Trưởng chịu trách nhiệm về sự thịnh suy của Gia Đình, để đưa Gia Đình, đơn vị căn bản trong hệ thống tổ chức phát triển theo đúng Nội Quy, Quy Chế GĐPTVN, đồng thời có thể được bầu làm Ban Viên của Ban Hướng Dẫn tỉnh, ở cương vị Huynh Trưởng lãnh đạo cấp 2. Và cuối cùng, trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp 3 Vạn Hạnh để trở thành một thành viên của Ban Hướng Dẫn cấp tỉnh; và khi được xếp vào hàng cấp Tấn, thì tầm nhìn là tầm nhìn của người lãnh đạo GĐPT trên toàn quốc.
Tầm nhìn này đòi hỏi người Huynh Trưởng Vạn Hạnh có một cái nhìn thật rộng, thật sâu để lèo lái con thuyền GĐPT đi đúng hướng, vì mang trách nhiệm nặng nề của sự tồn tại và phát triển tổ chức – hay nói khác đi, đó là tầm nhìn của một con chim đầu đàn chịu trách nhiệm về sự sinh tồn của cả một đàn – đòi hỏi nó phải có khả năng định hướng cao, khả năng nhận biết hướng gió để đưa đàn về nơi có nguồn sống.
I/ XÁC ĐỊNH HƯỚNG ĐI:
a) Con đường lý tưởng của GĐPTVN:
Nếu chỉ là hiện tượng bộc phát với hình ảnh một số em thiếu nhi đến chùa sinh hoạt tại miền Trung nước Việt của Đoàn Phật Tử Đồng Ấu, thì ngày nay đã không có danh hiệu GĐPT. Hiện tượng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi rồi tắt, và hình ảnh đó chỉ còn là kỷ niệm một thời đã qua của một số thanh niên trí thức có tâm huyết với ý tưởng ”đưa đạo Phật vào lớp trẻ, đem đạo Phật sinh động đi vào cuộc đời”.
Nhưng ý tưởng của những người khai phá đầu tiên đó đã trở thành lý tưởng chung cho các thế hệ Huynh Trưởng trong suốt 60 năm hình thành và phát triển phong trào, để rồi ngày nay, gần 30 năm đất nước thống nhất, trải qua bao diễn biến lịch sử, GĐPT vẫn tồn tại, dù gặp bao khó khăn. Nó đã trở thành một đoàn thể thanh niên duy nhất của miền Nam vẫn duy trì sinh hoạt, sắc áo lam vẫn quy tụ dưới mái chùa, vẫn truyền lưu qua các thế hệ con người, dẫu rằng trong suốt thời gian ấy GĐPTVN không tổ chức được những kỳ Đại Hội để đề cử ra một Ban Hướng Dẫn theo Nội Quy nhằm điều hành sự hoạt động xuyên suốt. Hơn thế nữa, GĐPT đã có mặt trở lại tại miền Bắc (Hà Nội, Hải Phòng 1994) và phát triển ra hải ngoại, nơi các nước phương Tây có cộng đồng người Việt sinh sống.
Hiển nhiên GĐPTVN đã lướt qua giới hạn của một phong trào, vượt lên trên tính cô đọng của một tổ chức, để giờ đây GĐPT đã hiện hữu như một thực thể trong xã hội.
Từ ngày thành lập cho đến nay, dù trải qua bao danh hiệu theo sự lớn mạnh của tổ chức, mục đích của GĐPT vẫn theo đuổi là con đường giáo dục:
1. ”Đào tạo thành những Phật Tử chân chính, xây dựng hạnh phúc gia đình trên nền luân lý Phật Giáo”.
2. ”Đào tạo thanh thiếu đồng niên về ba phương diện: Trí dục, Đức dục và Thể dục trên nền tảng Phật Giáo để đào tạo thành những Phật Tử chân chính”.
3. ”Đào tạo thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chính để phục vụ chánh pháp và thành những hội viên xứng đáng của Hội”.
4. ”Đào tạo thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chính. Góp phần xây dựng xã hội theo chân tinh thần Phật Giáo”.
5. ”Đào luyện thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chính. Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật Giáo”.
Năm lần thay đổi mục đích theo sự phát triển của tổ chức, nhưng mục tiêu luôn hướng tới của GĐPT vẫn là giáo dục.
GĐPTVN hiển nhiên là một tổ chức giáo dục, và giáo dục GĐPT đặt trên nền tảng đạo Phật, với 3 tính chất: Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi, rèn luyện cá nhân trên 3 phương diện Lý trí – Ý chí – Tình cảm, nhằm khơi dậy những bản tính tốt đẹp của mỗi cá nhân, phát huy khả năng ấy, tính chất ấy theo đường hướng Phật Giáo để con người xứng đáng với danh nghĩa con người. Nếu mục đích thứ nhất cuả GĐPT là đào tạo thanh thiếu đồng niên thành Phật Tử chân chính nhắm đến việc rèn luyện bản thân, cũng như giáo dục Đoàn Sinh tự rèn luyện cho chính mình trở thành con người hữu ích thì chính nó đã thực hiện mục đích thứ hai: Góp phần xây dựng xã hội qua việc những người con Phật với niềm tin vào nghiệp quả trong từng ý nghĩ, lời nói, hành động của chính mình, sống hòa mình vào xã hội để mang một đạo Phật sinh động đi vào cuộc đời, thể hiện đúng với tinh thần Phật Giáo: Phụng sự cho con người.
b) Sứ mệnh GĐPT:
1. Thực hiện mục đích GĐPT:
Mục đích của GĐPT đã trở thành Lý Tưởng, ước mơ của các thế hệ Huynh Trưởng GĐPT, những người đã nhận mục đích của tổ chức làm lý tưởng cho chính cuộc đời mình. Nếu không có những Huynh Trưởng sống cả cuộc đời cho GĐPT, bất chấp bao khó khăn, trở ngại từ bản thân của mỗi người, cho đến những nghịch duyên tác động từ các thế lực bên ngoài thì dòng lam sử của GĐPT hẳn nhiên đã cạn kiệt, ngừng chảy từ khi đất nước bước qua khúc quanh lịch sử 1975, đất nước thống nhất GĐPTVN không còn trên danh nghĩa pháp lý khi:
– Toàn xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã khẳng định giáo dục thanh thiếu nhi là nhiệm vụ của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản.
– Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với bản Hiến Chương Phật Giáo xác nhận GĐPTVN là một tổ chức trực thuộc Tồng Vụ Thanh Niên của Giáo Hội lại không được nhà nước công nhận.
– Từ ngày thành lập cho đến năm 1994 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam vẫn không xác nhận GĐPT.
Những thế hệ Huynh Trưởng GĐPTVN đã kiên trì lèo lái con thuyền GĐPT vượt qua bao sóng gió để GĐPTVN ngày nay đã trở thành một thực thể trong cộng đồng xã hội, trong nếp sinh hoạt của Phật Giáo Việt Nam. Cái thực thể này dù có được công nhận hay không công nhận nó vẫn tồn tại và phát triển, đã góp phần vào việc xây dựng xã hội – vì với mục đích giáo dục trên nền tảng đạo Phật, đào luyện con người trở thành một Phật Tử chân chính, phụng sự xã hội với tinh thần vô ngã vị tha của đạo Phật thì bất cứ xã hội nào cũng cần những chiếc “áo lam”.
2. Góp phần bảo vệ Đạo Pháp:
Đạo Phật có mặt hay không có mặt trong cuộc đời, không phải là ở hình thức, thể hiện ở những ngôi chùa thật lớn với đông đảo tín đồ Phật Tử đến lễ lạy, mà sự hiện hữu của một đạo Phật là sự có mặt của những người biết sống đạo, biết đem tinh thần giáo pháp của Đức Phật áp dụng vào đời sống, đem đạo đi vào cuộc đời để kiến tạo một xã hội an lành và hạnh phúc. Cả một cuộc đời của Đức Phật sau khi giác ngộ thành đạo dưới cội bồ-đề, Ngài đã đi để truyền bá chánh pháp, đem sự khám phá của mình về sự thật của vũ trụ vạn hữu đến mọi người để mọi người có một cuộc sống tỉnh thức, không tham đắm, không si mê, và không sân hận trước những giả tướng được kết thành bởi duyên khởi mà con người cho rằng là thật có, từ đó sinh ra tham, sân, si vốn là nguồn gốc của đau khổ. Và ngay cả sau này, khi trở thành vị lãnh tụ của Tăng đoàn, được mọi người yêu mến, được những vị lãnh đạo các quốc gia tôn kính, Ngài vẫn không yên nghỉ để mọi người cung phụng, hằng ngày với bình bát trong tay, Ngài vẫn đi khất thực để nhận lãnh sự cúng dường, để mọi người có dịp gieo trồng ruộng phước, thọ nhận để gieo duyên cho chủng tử Phật vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh được nẩy nở, Ngài đã từ chối khi được mọi người tôn sùng quá mức khi cho Ngài là một đấng thần linh: “Ta chỉ là một người dẫn đường” – một người dẫn đường cho mọi người, để mọi người được sống trong an lạc. Đó là tinh thần của đạo Phật: “Đạo Phật phụng sự cho con người, chứ không phải là để con người phụng sự cho đạo Phật”. Nên bảo vệ đạo pháp chính là đem tinh thần đạo Phật phụng sự cho cuộc đời. Hình thái sinh hoạt của GĐPT chính là việc đem một đạo Phật sinh động đi vào lớp trẻ, giáo dục trẻ thành những con người tốt, góp phần vào việc xây dựng xã hội, đó cũng là một lãnh vực của việc bảo vệ đạo pháp.
Điểm đặc sắc nhất của Phật Giáo Việt Nam là sự có mặt của Gia Đình Phật Tử, một tổ chức quy tụ được mọi thành phần sống trong xã hội, có một chương trình tu học và huấn luyện suốt cả một đời người, tự huấn, tự tu. Người Đoàn Viên GĐPT bảo vệ đạo pháp bằng cách thực hành theo chánh pháp, dựa vào giáo pháp để trau dồi nhân cách, tạo niềm tin yêu của mọi người chung quanh. Nếu Huynh Trưởng GĐPT tự đánh mất nhân cách của mình, thì chính là mình đã gián tiếp làm suy đồi đạo pháp.
3. Góp phần bảo vệ Dân Tộc:
Sứ mệnh của GĐPTVN còn là bảo vệ dân tộc – bảo vệ mạch sống của dân tộc qua những khía cạnh văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế, giáo dục… Khái niệm tổ quốc ngày nay thường gắn liền với một chế độ cầm quyền, một tư tưởng học thuyết, và người ta vẫn thường đồng hóa: yêu nước là yêu chủ nghĩa, bảo vệ tổ quốc là bảo vệ chế độ, qua các khẩu hiệu: Đạo pháp – Dân tộc – Xã hội chủ nghĩa.
Đạo Phật ngay từ khi được Đức Phật khám phá dưới cội bồ-đề và hoằng dương đạo pháp với một mục đích duy nhất “khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”, cũng có nghĩa là đem đạo Phật phụng sự cho chúng sanh nói chung và con người nói riêng được sự an lạc và giải thoát. Phật Giáo không chủ trương chống đối một học thuyết này hay học thuyết nọ, một tư tưởng này hay một tư tưởng khác, ủng hộ chế độ cầm quyền này hay chống đối chế độ cầm quyền nọ, Phật Giáo luôn tôn trọng phong tục, tập quán của mọi dân tộc và làm thăng hoa thêm đời sống của dân tộc ấy, vì thế mà đã trải qua hơn 2.500 năm, sự truyền bá của đạo Phật không để lại một dòng máu đổ, một giọt lệ rơi.
Hơn hai ngàn năm, gắn bó với mạch sống của dân tộc, Phật Giáo và Dân Tộc cùng trải qua những thăng trầm của lịch sử. Ánh sáng của đạo Phật là ánh sáng của chân lý, đã vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian, trong khi ý thức hệ chính trị thì chỉ đáp ứng một giai đoạn lịch sử.
Nếu phải đứng trước những trở ngại, nghịch duyên, thì Phật Giáo luôn đứng về những người dân đau khổ để nói lên sự khổ đau – bất kỳ chế độ cầm quyền nào mưu cầu đến sự hạnh phúc của người dân, mưu cầu đến sự thăng hoa của dân tộc chắc chắn sẽ lắng nghe tiếng nói của Phật Giáo với một thái độ trân trọng, thân thương.
Đứng trên lập trường bảo vệ dân tộc, người Huynh Trưởng GĐPTVN, trước hết là một công dân, với năng lực của mình góp phần vào việc bảo vệ đất nước, bảo vệ mạch sống của dân tộc qua những khía cạnh thích hợp với tinh thần của đạo Phật. Là một Cư Sĩ có một cuốc sống đời thường, lại có thiện duyên được tiếp xúc, tu học – hẳn rằng người Huynh Trưởng sẽ góp phần không nhỏ trong việc đưa ánh sáng của đạo Phật soi rọi vào từng lãnh vực của nhân sinh, góp phần vào việc kiến tạo một xã hội an lạc, hạnh phúc.
II/ TẦM MẮT NHÌN LÊN: GIÁO HỘI – CÁC THẾ HỆ ĐÀN ANH
Phát sinh từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước, do âm mưu chia rẽ cộng đồng dân tộc của thực dân Pháp (chia để trị) lãnh thổ Việt Nam được phân chia thành ba chế độ chính trị: Miền Nam là thuộc địa, miền Bắc thuộc chế độ bảo hộ và miền Trung đặt dưới quyền cai trị của triều Nguyễn – Phật Giáo Việt Nam do ảnh hưởng của phong trào Chấn Hưng Phật Giáo nên cũng khởi sắc, các hoạt động của giới Tăng-già và Cư Sĩ Phật Tử nhằm trả lại giá trị đích thực của đạo Phật qua những bài viết nghiên cứu về đạo Phật, các hội đoàn Phật học được thành lập nhằm chỉnh đốn thiền môn, đào tạo một thế hệ thanh niên tu sĩ chân chánh hữu học và hoằng dương chánh pháp, Trong thời điểm này do cơ cấu chính trị, các hội đoàn Phật Giáo sinh hoạt riêng biệt: ở miền Bắc có Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội (1934), ở miền Nam có Hội Phật Học Nam Việt (1931) và tại miền Trung có Hội An Nam Phật Học (1932); nơi đây đã có sự sinh hoạt của Ban Đồng Ấu Phật Tử (khởi đầu của phong trào GĐPT).
Tại miền Trung nơi khởi đầu, hình thành, và phát triển phong trào, đặc biệt đến năm 1940 với sự hình thành của Đoàn Phật Học Đức Dục quy tụ được một số thanh niên trí thức thì phong trào tuổi trẻ đến với đạo Phật đã bắt đầu lớn mạnh, bên cạnh Đoàn Đồng Ấu Phật Tử, còn có Gia Đình Phật Hóa Phổ, Thanh Niên Phật Tử, Hướng Đạo Phật Tử, để rồi sau đó đất nước chuyển mình vào mùa thu lịch sử 1945: vọng lên tiếng nói độc lập của dân tộc Việt Nam xóa tan chính sách chia để trị của thực dân Pháp với một quốc gia mới: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; các phong trào tạm ngưng hoạt động, để rồi năm 1947 phong trào sống lại, các thành viên của các đoàn thanh niên Phật Giáo khác đều quy tụ sinh hoạt trong danh hiệu Gia Đình Phật Hóa Phổ. Phong trào lan rộng ra miền Bắc (1948), vào miền Nam (1949). Tuy các đơn vị Gia Đình Phật Hóa Phổ sinh hoạt tại các ngôi chùa dù trực thuộc ở hội đoàn nào, địa phương nào trên lãnh thổ Việt Nam, cũng đã có sự thống nhất về hình thức cũng như chương trình tu học mà dấu ấn là Bản Nội Quy Gia Đình Phật Hóa Phổ (1949).
Từ khi được thành lập, các Hội Phật Học hoạt động riêng biệt, mãi đến ngày 6/1/1951, tại chùa Từ Đàm (Huế) 6 tập đoàn Phật Giáo ở 3 miền gồm 3 tập đoàn Tăng-già và 3 tập đoàn Cư Sĩ đã họp Đại Hội hình thành “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” – Việc hình thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam với ban đại diện của các hội đoàn Phật Giáo trong nước, có thể xem là hình thức đầu tiên của việc hình thành Giáo Hội, là tiếng nói chung của các hội đoàn Phật Giáo. Chính từ đây, một Đoàn Đại Biểu của Phật Giáo Việt Nam đại diện cho Phật Giáo tại Việt Nam đến tham dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới và trở thành một trong những thành viên sáng lập nên Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới. Đoàn đại biểu này đã thay mặt cho Phật Giáo Việt Nam tại hội nghị Colombo nhận và mang về cho đất nước lá cờ ngũ sắc biểu tượng cho đạo Phật.
Sau sự kiện thành lập Tổng Hội vào các ngày 24, 25, 26/4/1951, tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ đã tiến hành Hội Nghị Huynh Trưởng, quyết định đổi danh hiệu thành GĐPT với một bản Nội Quy mới (Đại Hội GĐPT 1951).
Hiệp định Genève 20/7/1954, đất nước bị chia cắt từ vĩ tuyến 17 với hai chế độ chính trị đối lập, miền Bắc đi vào xã hội chủ nghĩa với tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tại miền Nam chính quyền được thành lập với một quốc gia mới là Việt Nam Cọng Hòa.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính quyền ban hành quyết định thành lập “Hội Phật Giáo Việt Nam” – đồng thời cũng chấm dứt sự sinh hoạt của các đơn vị Gia Đình Phật Tử.
Tại miền Nam Việt Nam, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam dời trụ sở vào Saigon, đặt văn phòng điều hành tại chùa Ấn Quang Saigon (1956), các đơn vị GĐPT vẫn sinh hoạt và phát triển dù gặp nhiều khó khăn.
Pháp Nạn 1963 tại miền Nam dẫn đến sự sụp đổ (1/11/1963) của nền Đệ Nhất Cộng Hòa (chính quyền Ngô Đình Diệm), các hội đoàn Phật Giáo tại miền Nam tiến hành Đại Hội (31/12/1963 – 04/1/1964), tham dự gồm 11 phái đoàn Phật Giáo (đại diện cho Phật Giáo miền Bắc là Phái Đoàn Phật Giáo Vĩnh Nghiêm). Tại Đại Hội này, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” được thành lập, kế thừa dòng sinh hoạt Phật Giáo Việt Nam 2.000 năm lịch sử. Đây chính là Giáo Hội Phật Giáo đầu tiên tại Việt Nam được thành lập với danh xưng là “Giáo Hội”, vì trước đây dưới thời thực dân Pháp, Đạo Dụ số 10 không cho phép các tôn giáo tại Việt Nam được sử dụng danh xưng Giáo Hội, mà danh từ này chỉ được dành riêng cho Giáo Hội Công Giáo và được chính quyền Ngô Đình Diệm duy trì. Việc hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với danh xưng “Giáo Hội” đã thúc đẩy tổ chức GĐPT tiến hành Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc lần thứ 5 (28, 29, 30/6/1964) tại Saigon, đổi danh hiệu thành Gia Đình Phật Tử Việt Nam, đặt mình trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bởi sự duyệt y thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN (21/7/1964) của Hội Đồng Viện Hóa Đạo, và Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xác nhận tổ chức GĐPTVN trực thuộc Tổng Vụ Thanh Niên là nền tảng pháp lý của GĐPT.
Sau khi đất nước bị chia cắt thành 2 miền, phải nói rằng miền Nam Việt Nam là mảnh đất của tôn giáo và chính trị, nhất là dưới sự sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, các thế lực chính trị luôn tranh giành, ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước. Vì tôn giáo là nơi quy tụ quần chúng, mà các lực lượng chính trị cần sự hậu thuẫn của quần chúng nên chính trị thường đến với tôn giáo; trước các cuộc vận động tranh cử nghị viên, dân biểu, nghị sĩ, người ta thường tìm đến mái chùa, nhà thờ, các hội đoàn tôn giáo để vận động, hứa hẹn và lôi kéo – Hậu quả của những tác động này là sự phân rẽ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành 2 phái “Ấn Quang” và “Quốc Tự “. Với Lập trường phụng sự cho đạo pháp và dân tộc, không dựa vào các thế lực chính trị, tổ chức GĐPTVN vẫn luôn là một khối thống nhất dưới sự điều hành của Ban Hướng Dẫn Trung Ương, trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, văn phòng Viện Hóa Đạo đặt tại chùa Ấn Quang – bởi Giáo Hội này đã không dựa vào thế lực cầm quyền quay lưng lại với dân tộc, luôn đặt quyền lợi dân tộc lên trên mọi chủ nghĩa – Với lập trường đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã là Giáo Hội kế thừa 2.000 năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
Đất nước được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam cả nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước công nhận quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của người dân, nhưng về tổ chức, sinh hoạt tôn giáo, cụ thể là Phật Giáo, thì bên cạnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, chính quyền và mặt trận đã thành lập và ủng hộ tích cực “Ban Liên Lạc Phật Giáo Yêu Nước” do các Hòa Thượng đảng viên làm chủ tịch, đó là bước đầu tiên để chính quyền điều hành Phật Giáo. Trước tình hình ấy, năm 1977 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiến hành Đại Hội kỳ VII tại Ấn Quang để củng cố nhân sự – bởi trên thực tế, Giáo Hội các cấp hầu như bị tê liệt, vì tại mỗi địa phương, do sự hỗ trợ của chính quyền đều có mặt đâu đó bóng dáng sự hoạt động tích cực của Ban Liên Lạc Phật Giáo các cấp.
Sau 5 năm làm công tác vận động của Ban Liên Lạc Phật Giáo Yêu Nước, ngày 4/11/1981 một “Đại Hội Phật Giáo toàn quốc” được triệu tập tại thủ đô Hà Nội, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” ra đời với bản Hiến Chương lấy phương châm: “Đạo Pháp – Dân Tộc – Chủ Nghĩa Xã Hội” để phụng sự. Các vị Hòa Thượng có uy tín như Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Trí Tịnh, Hòa Thượng Minh Châu, Hòa Thượng Thiện Siêu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dự hội nghị, tham gia vào Giáo Hội mới với tư cách cá nhân, vì bản thân các Ngài, ngay cả Hòa Thượng Trí Thủ đang là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng không có quyền khai tử Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Tuy nhiên, nhà nước đã lập luận cố tình cho rằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chỉ là 1 trong 7 tập đoàn Phật Giáo tại miền Nam tham gia hội nghị, mà quên mất rằng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với đầy đủ tư cách pháp nhân đã là đại diện cho Phật Giáo Việt Nam trên thế giới, và trên thực tế Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã điều hành sự sinh hoạt Phật Giáo trên khắp toàn miền Nam Việt Nam với các văn phòng của Giáo Hội từ cấp xã, thôn đến các tỉnh, thành.
Đại Hội Phật Giáo 1981 được sự phê duyệt của chính quyền đã thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và xem như đó là sự mặc nhiên chấm dứt quyền lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Việt Nam. Trong bản Hiến Chương đầu tiên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam này cũng không hề xác nhận sự hiện hữu của tổ chức GĐPTVN, một tổ chức giáo dục thanh thiếu nhi đã có một quá trình lam sử gắn liền với đạo pháp và dân tộc kể từ khi nó còn phôi thai nơi Hội An Nam Phật Học, trưởng thành lớn mạnh trên khắp 3 miền đất nước, đã thống nhất trước khi các hội đoàn Phật Giáo trong nước thống nhất thành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Tổ chức này luôn đặt mình trong lòng Giáo Hội kể từ khi hình thành Giáo Hội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời đã không chấp nhận sự sinh hoạt của GĐPT, với ý đồ GĐPT sẽ tự hủy diệt khi nó không còn cơ sở pháp lý để sinh hoạt như đã thực hiện ở miền Bắc Việt Nam?
Ý đồ xóa bỏ sự sinh hoạt GĐPT của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã không trở thành hiện thực. Sự sinh hoạt của GĐPT vẫn tồn tại và phát triển dù gặp nhiều khó khăn. GĐPTVN đã trở thành đối tượng để nhà nước nghiên cứu, tìm ra một phương án thích hợp để quản lý. Tháng 8 năm 1994, Bạch Thanh Bình – một ủy viên của Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã có một đề tài báo cáo khoa học: “Gia Đình Phật Tử – Tổ chức thanh niên Phật Giáo trước 1975” đã nhận định, đánh giá hoạt động của GĐPT, đề tài này đã nêu lên 2 quan điểm:
“1. Muốn ngăn chận, phủ nhận và giải tán Gia Đình Phật Tử, chỉ cho sinh hoạt thanh thiếu nhi trong phạm vi từng chùa, chủ yếu là học Phật, lễ Phật và có chú ý đặc điểm giới trẻ trong sinh hoạt, nhưng không nhìn nhận và không cho phép Gia Đình Phật Tử sinh hoạt như một tổ chức hội đoàn. Quan điểm này cho rằng cần phải giải thể đội ngũ Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử, không cho họ nhân danh Gia Đình Phật Tử để hoạt động. Mọi hoạt động của thanh thiếu nhi Phật Giáo kể cả sinh hoạt từ thiện, nhân đạo thuộc quyền quản lý của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam.
2. Chấp nhận việc phủ nhận và giải tán Gia Đình Phật Tử như là một thực tế rộng rãi, có tính quần chúng; định hướng điều chỉnh, đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử cho phù hợp với điều kiện xã hội mới đặt trong phạm vi quyền và quản lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Quan điểm này cho rằng cần phải vận động và nắm đội ngũ Huynh Trưởng là cơ bản và quyết định, đồng thời loại bỏ số Huynh Trưởng có tư tưởng xấu, tiêu cực.
Gia Đình Phật Tử không được nhìn nhận là hội đoàn độc lập, có hệ thống riêng, nhưng cho phép sinh hoạt Gia Đình Phật Tử trong phạm vi tổ chức và quản lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với tư cách của hàng nam nữ Phật Tử; với các Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Phật tử chung đó, họ có bộ phận hướng dẫn Gia Đình Phật Tử”.
Và theo báo cáo đó, ngày 3/5/1995 chỉ thị 01/CT/TGCP của Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã chính thức xác nhận danh hiệu Gia Đình Phật Tử, thừa nhận sự hiện hữu của GĐPT trên văn bản pháp lý. Ngày 21/7/1995 Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra thông bạch số 445 về việc “Hướng dẫn thực hiện quản lý Gia Đình Phật Tử” đã đặt các đơn vị GĐPT đi ngược với đạo lý của người con Phật: “Ân sư trưởng, Ân thầy bạn”, phủ nhận vai trò của Ban Hướng Dẫn trong quá trình lam sử – Chỉ thị này cũng đưa các đơn vị không “đăng ký” vào tình huống vô cùng khó khăn: gọi là “sinh hoạt bất hợp pháp” với mọi áp lực từ mọi phía, từ các vị trụ trì nơi các đơn vị GĐPT sinh hoạt, và hậu quả là sự phân hoá sâu sắc trong hàng ngũ Huynh Trưởng GĐPT. Gia Đình Phật Tử đã phân làm 2 ngã rẽ: theo Phân Ban trực thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để được “hợp pháp”; và “kiên trì giữ truyền thống sinh hoạt, không làm công cụ cho bất kỳ một thế lực nào của GĐPT” chờ Gia Đình Phật Tử tiến hành Đại Hội Huynh Trưởng…
Từ Đại Hội lần thứ 1 (1981) với bản Hiến Chương Giáo Hội “đầu tiên” đến mãi sau này Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (Đại Hội Phật Giáo lần 4 – 1997) mới có Phân Ban Gia Đình Phật Tử, và Giáo Hội có các văn bản chỉ thị các đơn vị GĐPT phải “đăng ký” sinh hoạt, đồng thời thiết lập bản dự thảo nội quy mới cho GĐPT, phủ nhận bản Nội Quy của GĐPTVN do Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc đã tu chỉnh năm 1973.
Việc thiết lập bản nội quy này đã khiến các Huynh Trưởng GĐPT phải có thái độ dứt khoát – Trước đây người Huynh Trưởng có thể cảm thông, xem việc tự hình thành Phân Ban GĐPT trong Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là một sự tuỳ duyên; giờ đây với bản dự thảo nội quy này – Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã cố tình biến đổi bản chất “tập trung dân chủ” của GĐPT, vi phạm lời giáo huấn “Lục hòa cộng trụ” của Đức Phật mà tổ chức GĐPT lấy đó làm nguyên tắc sinh hoạt và điều hành.
Đây chính là nguyên nhân tác hại, làm lũng đoạn sự thống nhất của GĐPT, điều mà ngày xưa Đức Phật gọi là “sư tử trùng thực sư tử nhục”. Do đó đã có những Tâm thư, Thỉnh Nguyện thư, Quyết Tâm thư và Kháng Nghị thư của Huynh Trưởng GĐPTVN khắp các miền đất nước gởi đến Giáo Hội và cấp lãnh đạo nhà nước trong các năm 1996, 1997, 1998.
Tháng 2/1996, tại Đại Hội Phật Giáo khoá 3, kỳ 4, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có nghị quyết “Không công nhận GĐPTVN do anh Nguyễn Châu làm Trưởng Ban”.
Dưới sự bảo trợ của chính quyền, ngày 27, 28, 29 tháng 7 năm 2001, tại Huế, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cho phép Phân Ban GĐPT tổ chức Đại Hội Huynh Trưởng Cấp Tấn nằm trong hệ thống Phân Ban để thiết lập bản Nội Quy, đồng thời khai khóa trại huấn luyện Vạn Hạnh, mà theo Hòa Thượng Thiện Duyên – Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương Giáo Hội đăng trên báo Giác Ngộ: “Đó là Vạn Hạnh 2 thể hiện tính liên tục của tổ chức GĐPT. Trước năm 1975, Trại Vạn Hạnh 1 tổ chức thành công do Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường làm Trại Trưởng. Đến năm 2001, trại Vạn Hạnh 2 đã khai mạc cũng do Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường làm Trại Trưởng” (báo Giác Ngộ ngày 15/8/2001).
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM:
Ngay sau khi thống nhất đất nước 30/4/1975, tại thành phố Sài Gòn – thủ đô nước Việt Nam Cọng Hòa cũ – Ủy Ban Quân Quản Thành Phố đã ra quân lệnh: “Các đoàn thể thanh niên chính quyền cũ phải tự động giải tán”. Quân lệnh này đã khiến tất cả các đoàn thể thanh niên hoạt động tại miền Nam phải ngưng sinh hoạt, vì sự hoạt động của các đoàn thể này đặt trên căn bản giấy phép của Bộ Thanh Niên chính quyền cũ, ngay cả tổ chức Hướng Đạo Việt Nam, một hội đoàn mang tính chất quốc tế. Riêng các đơn vị Gia Đình Phật Tử vẫn duy trì sinh hoạt tại các mái chùa, tại một số địa phương tuy không thể sinh hoạt vào những ngày chủ nhật thì họp mặt vào những ngày sám hối của tự viện nơi trú xứ.
Ngày 8/7/1975, anh Võ Đình Cường – với trọng trách Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN đã ký văn bản số 230/HDTƯ/TB với các nội dung sau:
“- Gia Đình Phật Tử được công nhận là một đoàn thể tiến bộ của Phật Giáo Việt Nam.
– Trong khi chờ đợi một Đại Hội thu hẹp của GĐPTVN để có những quyết định mới. Ban Hướng Dẫn Trung Ương yêu cầu:
1/ Không thay đổi thành phần Ban Hướng Dẫn đã được Ban Hướng Dẫn Trung Ương duyệt y.
2/ Uyển chuyển sinh hoạt và giữ vững tinh thần GĐPTVN.
3/ Khuyến khích anh chị em Đoàn Trưởng, Đoàn Sinh với tư cách công dân hay đại diện cho tổ chức GĐPT tích cực tham gia công tác ích quốc lợi dân.”
Văn bản đó đã là hành trang cho những Huynh Trưởng GĐPT thế hệ đó tích cực dấn thân vào đời, cho sự tồn tại cuả tổ chức.
Trong khi Ban Hướng Dẫn Trung Ương âm thầm hoạt động với sự điều hành của anh Nguyên Y – Lương Hoàng Chuẩn (Phó Ban Hướng Dẫn Trung Ương); chị Tâm Chánh – Hoàng Thị Kim Cúc (Phó Ban Hướng Dẫn Trung Ương); rồi anh Như Tâm – Nguyễn Khắc Từ (UV. Nghiên Huấn); anh Như Tâm qua đời, Hội Đồng cấp Tấn tấn cử anh Nguyên Tín – Nguyễn Châu vào chức vụ Quyền Trưởng Ban. Các đơn vị GĐPT vẫn duy trì sinh hoạt theo đúng tinh thần bản Nội Quy và Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN, vì nó là linh hồn của những thực thể, là công trình cân não và xương máu của Đoàn Viên GĐPTVN – mà muốn xóa bỏ hay tu chỉnh nó, phải do Đại Hội Huynh Trưởng GĐPTVN, những người đã gắn chặt cả cuộc đời kiến lập nên.
Trong suốt gần 30 năm kể từ ngày đó, thực thể GĐPT vẫn phát triển dù gặp không ít những khó khăn; GĐPTVN đã có những thế hệ Huynh Trưởng mới trưởng thành sau chiến tranh. Và tuy không tổ chức được những kỳ Đại Hội, nhưng sự hoạt động của Ban Hướng Dẫn Trung Ương vẫn tiến hành liên tục, âm thầm, dù anh Võ Đình Cường vẫn im lặng sau khi ký văn bản lịch sử ấy. Thành phần của Ban Hướng Dẫn 20 năm trước nay kẻ mất, người còn, người ra nước ngoài sinh sống. Nhu cầu tất yếu của tổ chức là phải bổ sung lại thành phần của Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN. Thế là ngày 19/2/1995, nhân dịp về dự lễ khánh thành Vĩnh Minh Thiền Viện, Hội Đồng Huynh Trưởng Cấp Tấn (đại diện các tỉnh) tiến hành Đại Hội thu hẹp tại Trại Trường Đalat bổ xung lại thành phần Ban Hướng Dẫn Trung Ương, để rồi tại đây văn kiện lịch sử thứ hai được ra đời: Bức Tâm Thư được gởi đến các đơn vị GĐPT trên toàn quốc xác nhận lại cái thực thể GĐPTVN:
”…Một Hội Đồng Huynh Trưởng cao cấp GĐPTVN được vận dụng hình thành ngày 19/2/1995 tại Trại Trường Dalat đã sung cử Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN để tạm thời điều hành sinh hoạt tu học cho các Đoàn Viên GĐPT trong khi chờ đợi một Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc được chính thức triệu tập. Đây là một sự kiện lịch sử mà cũng là ước vọng cuả hàng chục vạn Đoàn Viên GĐPT sau 20 năm ẩn nhẩn chờ đợi nay mới thành tựu…
…Từ đây đã mở thêm trang sử mới cho GĐPTVN. Và cũng từ đây đã có một Ban Hướng Dẫn Trung Ương được bổ xung đầy đủ, có tư cách và thẩm quyền lãnh đạo và điều hành GĐPTVN”.
Trong suốt 20 năm ấy, nếu các đơn vị GĐPT không còn sinh hoạt, thì lấy đâu đến năm 1994 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập Phân Ban?
Trong suốt 20 năm GĐPTVN phải trải qua bao điều khó khăn. Nếu không có những thế hệ Huynh Trưởng dấn thân cho sự sống còn của tổ chức, không có những trại huấn luyện và đào tạo các cấp thì làm sao tháng 3 năm 1995 tên gọi GĐPT mới được nhà nước chính thức thừa nhận qua chỉ thị 01/CT/TGCP của Ban Tôn Giáo Chính Phủ – Lấy đâu năm 2001 có danh hiệu Trại Vạn Hạnh 2 như tên gọi của Hòa Thượng Thiện Duyên.
TÍNH HỢP PHÁP CỦA GĐPTVN:
Từ những ghi nhận, phân tích các sự kiện trên, ta có thể nêu lên được tính hợp pháp của GĐPTVN:
– GĐPT là một sắc thái sinh hoạt, là tổ chức giáo dục chuyên ngành của Phật Giáo Việt Nam: Có chùa, có Huynh Trưởng GĐPT là có sự sinh hoạt Gia Đình Phật Tử.
– Trong giai đoạn 1975-1995: GĐPTVN vẫn hiện hữu dù có được công nhận hay không công nhận – Chứng tỏ GĐPTVN là một thực thể sinh hoạt trong cộng đồng xã hội, trong nếp sinh hoạt Phật Giáo Việt Nam.
– Kháng thư của GĐPTVN gởi lên Giáo Hội và chính quyền – được nhà nước tiếp nhận, gởi về cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam giải quyết. Đó là tờ “đăng ký sinh hoạt hợp pháp của GĐPTVN”.
Do đó: Nếu Hiến Pháp công nhận quyền tự do tín ngưỡng của công dân, nhà nước công nhận sự hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để quản lý, thì phải công nhận tổ chức GĐPTVN. Đó là tính hợp pháp của GĐPTVN.
III/ NHÌN LẠI CHÍNH MÌNH:
Những tưởng rằng GĐPTVN sẽ tự hủy diệt như sư biến mất của bao đoàn thể thanh niên khác của chế độ miền Nam trước kia, khi chính quyền cũ bị sụp đổ, nhưng GĐPT vẩn giữ được sự sinh hoạt của mình trước bao khó khăn.
– Nhờ lòng kiên trì của thế hệ Huynh Trưởng đương thời trung kiên với lý tưởng (ngoại trừ một số Huynh trưởng không đủ duyên ở lại với tổ chức).
– Nhờ sự cưu mang của chư vị Tôn Túc trụ trì nơi các đơn vị GĐPT sinh hoạt không sợ hãi trước bao áp lực của Giáo Hội mới, công an, chính quyền.
– Trên nền tảng pháp lý, GĐPT là một tổ chức tín ngưỡng Phật Giáo, sự sinh hoạt của GĐPT được ghi nhận trong Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (chứ không phải căn cứ vào giấy phép của Bộ Thanh Niên của chính quyền Việt Nam Cọng Hòa) – mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã được chính quyền mặc nhiên công nhận khi triệu tập Đại Hội Phật Giáo toàn quốc lần 7 – đồng thời cũng không có bất kỳ một văn bản nào giải tán Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hay GĐPTVN.
– Tinh thần văn bản số 230/HDTƯ/TB ngày 8/7/1975 của anh Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN, người chịu trách nhiệm về toàn bộ sự sinh hoạt của tổ chức đã được Huynh Trưởng GĐPTVN các cấp tôn trọng, chấp hành và đó cũng là văn kiện cho các Huynh Trưởng GĐPTVN duy trì sự sinh hoạt vượt qua bao khó khăn, trở lực.
Trong thời kỳ ban đầu của chế độ mới, tại một số địa phương GĐPT không tổ chức sinh hoạt công khai được, phải chuyển về hình thức tu học đạo tràng, để rồi trở lại với hình thức đoàn phục xưa cũ và lan toả ra đến Hà Nội, Hải Phòng – các tỉnh phía Bắc. Đó là nguyên nhân của bản ‘báo cáo khoa học’ của Ban Tôn Giáo Chính Phủ (1995) đặt GĐPTVN thành một đối tượng nghiên cứu, đề ra chính sách giải quyết. Như vậy với bao áp lực của công an, chính quyền không xóa bỏ được tổ chức GĐPT, người ta đã tìm cách quản lý mà điều thứ hai trong bản báo cáo đã nêu:
“Ngăn chận, phủ nhận và giải tán Gia Đình Phật Tử, chỉ cho sinh hoạt thanh thiếu nhi trong phạm vi từng chùa, chủ yếu là học Phật, lễ Phật và có chú ý đặc điểm giới trẻ trong sinh hoạt, nhưng không nhìn nhận và không cho phép Gia Đình Phật Tử sinh hoạt như một tổ chức hội đoàn. Quan điểm này cho rằng cần phải giải thể đội ngũ Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử, không cho họ nhân danh Gia Đình Phật Tử để hoạt động. Mọi hoạt động của thanh thiếu nhi Phật Giáo kể cả sinh hoạt từ thiện, nhân đạo thuộc quyền quản lý của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam.
Chấp nhận việc phủ nhận và giải tán Gia Đình Phật Tử như là một thực tế rộng rãi, có tính quần chúng; định hướng điều chỉnh, đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử cho phù hợp với điều kiện xã hội mới đặt trong phạm vi quyền và quản lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Quan điểm này cho rằng cần phải vận động và nắm đội ngũ Huynh Trưởng là cơ bản và quyết định, đồng thời loại bỏ số Huynh Trưởng có tư tưởng xấu, tiêu cực.
Gia Đình Phật Tử không được nhìn nhận là hội đoàn độc lập, có hệ thống riêng, nhưng cho phép sinh hoạt Gia Đình Phật Tử trong phạm vi tổ chức và quản lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với tư cách của hàng nam nữ Phật Tử; với các Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Phật tử chung đó, họ có bộ phận hướng dẫn Gia Đình Phật Tử”.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam sau 3 kỳ tiến hành Đại Hội đã không đón nhận sự sinh hoạt và xác định vị trí của GĐPT trong lòng Giáo Hội để rồi 20 năm sau, khi nhà nước chấp thuận phương án giải quyết GĐPTVN trong bản “báo cáo” thì mới ghi nhận cụm từ GĐPT trong Hiến Chương của Giáo Hội – và đặt ra Phân Ban GĐPT, đưa GĐPTVN đến tình trạng phân rẽ.
Thực trạng GĐPT ngày nay, đó là sự phân rẽ tổ chức, do chỉ thị của Giáo Hội đến với các đơn vị đòi hỏi phải trực tiếp “đăng ký” khi sinh hoạt. Giáo Hội đã thực hiện đúng sự chỉ đạo của chính quyền: phủ nhận sự tồn tại của Ban Hướng Dẫn các cấp GĐPTVN, đặt các đơn vị GĐPT đang sinh hoạt vào vị trí phải chọn lựa: “Nghe lời Giáo Hội thì từ bỏ các thế hệ Huynh Trưởng đàn anh đã kiên trì gìn giữ tổ chức trong suốt 20 năm; vì những người đó theo quan điểm của nhà nước: “Huynh Trưởng có tư tưởng xấu, tiêu cực”, họ là những Huynh Trưởng không chịu từ bỏ lý tưởng, không chấp nhận điều mà nhà nước mong muốn: Giải tán GĐPT để dưới chế độ xã hội chủ nghĩa – con người chỉ được giáo dục duy nhất theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng Sản như họ đã làm trước đây ở miền Bắc khi chia cắt đất nước.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đi cùng chính quyền, với chiêu bài “GĐPT hợp pháp” khi được Giáo Hội thừa nhận; và “bất hợp pháp” nếu không “đăng ký” tham gia sẽ không được Giáo Hội thừa nhận.
Sự phân rẽ của GĐPT là lẽ đương nhiên, sự tồn tại 2 hệ thống GĐPT theo Phân Ban và GĐPT truyền thống (GĐPTVN) chỉ là một sự kiện của lịch sử. Nếu nhìn với cái nhìn bất nhị, vượt khỏi thế giới nhị nguyên với hai mặt đối đãi thì đó không phải là sự chia rẽ, mà là sự đâm chồi nứt nẻ để phát triển từ gốc của một thân cây sau 50 năm gieo trồng, trưởng thành và lớn mạnh.
IV/ TẦM MẮT NHÌN NGANG: CÁC ĐOÀN THỂ BẠN
GĐPT đã trở thành một đoàn thể thanh niên duy nhất của xã hội miền Nam cũ tồn tại sinh hoạt sau khi đất nước được thống nhất dưới pháp chế xã hội chủ nghĩa, đây chính là niềm sinh lực ươm mầm sống cho các đoàn thể thanh niên trước kia đã giải tán.
Khi đất nước bước vào sự đổi mới, đã nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế chung của thế giới, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa công nghệ thông tin, Việt Nam sau một thời gian dài trì trệ, kinh tế được phát triển lớn mạnh, nhưng bên cạnh đó tệ nạn xã hội mỗi lúc một gia tăng – Ngày nay hiểm họa ma túy được nhà nước xem là quốc nạn. Sự độc quyền giáo dục của tổ chức Đoàn Thanh Niên Cộng Sản dưới sự lãnh đạo của đảng trước đây đã được chia sẻ, nhà nước đã phải chấp nhận sự đa dạng này trong một xã hội đầy rẫy những tệ nạn. Trước sự đổi mới của đất nước để hòa nhập chung với cộng đồng quốc tế – Một số đoàn thể thanh niên miền Nam trước kia, sau một thời gian dài im lặng, đã sinh hoạt công khai trở lại dưới hình thức là thành viên của Hội Liên Hiệp Thanh Niên hay hội đoàn nào đó đặt dưới sự chỉ đạo của nhà nước, đã góp phần tích cực hướng đời sống thanh niên đến những sinh hoạt lành mạnh. Vì khác với Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Huynh Trưởng của các đoàn thể này mang tính chất tự nguyện vì lý tưởng sống, vì hạnh nguyện phục vụ nhân sinh chứ không phải vì quyền lợi chính trị đặc quyền.
Phải xác nhận rằng: GĐPT tự nó có một hạn chế lớn, bởi lễ nghi tôn giáo nên không thể thu hút được tất cả các thanh niên, nhất là giới thanh niên theo truyền thống gia đình có một tôn giáo không phải là Phật Giáo.
Trước sự giới hạn đó, tầm mắt nhìn của người lãnh đạo GĐPT về các đoàn thể khác phải rộng rãi hơn – bởi ý tưởng đầu tiên của những người khai mạch sống cho GĐPT là lấy đạo Phật làm nền tảng trong việc giáo dục thanh thiếu nhi, vì đạo Phật thỏa mãn được hai điều kiện:
– Gắn liền với đời sống dân tộc.
– Với tinh thần Bi, Trí, Dũng – đạo Phật có thể xây dựng được một hướng sống cho thanh niên.
Ý tưởng đó là khởi điểm của sự phát sinh ra GĐPT, chứ không phải GĐPT dùng tín ngưỡng tôn giáo để tập hợp thanh niên – Nếu nhìn đạo Phật qua khía cạnh triết lý, ta thấy rằng bản chất của đạo Phật là đạo của chân lý, Đức Phật chỉ là người khám phá ra chân lý chứ không phải là người sáng tạo ra chân lý. Suốt 49 năm hoằng truyền chánh pháp, Ngài làm công việc trình bày sự thật của vũ trụ vạn hữu, giúp mọi người nhận thức được nỗi khổ; nguyên nhân gây ra khổ; sự an lạc; và đề ra phương pháp để đạt đến sự an lạc. Sự tồn tại của đạo Phật không phải là ở hình thức lễ nghi, mà ở nơi những người sống đạo, làm việc thiện mà không nghĩ đến cái ngã của bản thân mình, thì hình ảnh của họ đâu đó mang hình ảnh của một Quán Âm thị hiện. Với cái nhìn đó ta sẽ thấy nơi các đoàn thể bạn và tổ chức GĐPT có mối duyên sinh hòa hợp để cùng nhau phụng sự.
V/- TẦM MẮT NHÌN XUỐNG: CÁC THẾ HỆ ĐÀN EM
Do quan điểm hợp pháp hay không hợp pháp trước áp lực của sự kết hợp giữa giáo quyền và thế quyền mà GĐPT đã có sự phân rẽ, biện minh cho sự tách rời khỏi dòng sinh hoạt truyền thống này, là lời nói đầu của bản Nội Quy của Phân Ban Gia Đình Phật Tử:
“Từ trước tới nay, Gia Đình Phật Tử Việt Nam luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật Giáo hợp pháp. Ngày nay Gia Đình Phật Tử Việt Nam sinh hoạt tu học trong pháp lý Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và pháp luật nhà nuớc hiện hành.
Nội Quy Gia Đình Phật Tử được tu chỉnh lần này nhằm khế lý, khế cơ và khế thời để sinh hoạt tu học của Gia Đình Phật Tử được thống nhất.
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quản lý toàn bộ các sinh hoạt tu học của Gia Đình Phật Tử kể cả vấn đề cơ cấu nhân sự các cấp theo Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Phải mất 4 năm, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đưa ra bản dự thảo nội quy cho Gia Đình Phật Tử (1997) – đã bị các đơn vị GĐPT trên toàn quốc phản đối, vì trái với tinh thần Đại Hội dân chủ của GĐPT. – Bản Nội Quy – Quy Chế Huynh Trưởng lần này được ra đời nhằm xoá bỏ bản Nội Quy – Quy Chế Huynh Trưởng của tổ chức GĐPTVN do Đại Hội GĐPTVN toàn quốc tu chỉnh năm 1973.
Dưới sự bảo trợ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và chính quyền, Phân Ban GĐPT thuộc Giáo Hội đã tổ chức buổi lễ khai mạc trại Vạn Hạnh 2 vào các ngày 28, 29 tháng 7 năm 2001 tại Tổ đình Từ Đàm, Huế. Các Huynh Trưởng GĐPT trực thuộc Phân Ban Hướng Dẫn GĐPT triệu tập Hội Nghị Huynh Trưởng Cấp Dũng – Cấp Tấn GĐPT trực thuộc Phân Ban trên toàn quốc thiết lập bản Nội Quy này với lời mở đầu:
“Từ trước tới nay, Gia Đình Phật Tử Việt Nam luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật Giáo hợp pháp. Ngày nay Gia Đình Phật Tử Việt Nam sinh hoạt tu học trong pháp lý Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và pháp luật nhà nuớc hiện hành”.
Vấn đề “hợp pháp” hay “không hợp pháp” còn là vấn đề tranh cãi, không những ở nội bộ GĐPT mà còn là vấn đề lớn của Phật Giáo Việt Nam, vì Nội Quy GĐPTVN năm 1973 đã xác nhận tổ chức GĐPTVN trực thuộc Tổng Vụ Thanh Niên của GHPGVNTN, Giáo Hội này là Giáo Hội duy nhất đủ tư cách pháp nhân đại diện cho Phật Giáo Việt Nam không những về đối nội trong nước (miền Nam Việt Nam cũ) mà cả trên thế giới, điều quan trọng nhất là Giáo Hội này đã là người thừa kế dòng lịch sử 2.000 năm Phật Giáo của dân tộc. Sau khi đất nước được thống nhất, chính quyền vẫn thừa nhận sự hợp pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bởi sự triệu tập công khai Đại Hội Phật Giáo kỳ 7 (1977) tại chùa Ấn Quang, Saigon.
Đại Hội Phật Giáo năm 1981 dưới sự chỉ đạo của đảng và chính quyền đã thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thừa nhận các Giáo Hội Phật Giáo khác như Giáo Hội Cổ Sơn Môn, Giáo Hội Theravada, Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ, và xem đó như là các hệ phái Phật Giáo, là thành phần trong Giáo Hội mà không đề cập đến sự hiện hữu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, phải chăng điều đó được xem như là sự mặc nhiên chấm dứt sự hoạt động hợp pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nên không có bất cứ một văn bản pháp lý nào để giải thể? Trong khi đó, Các vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất người thì chết trong tù, người thì bị quản thúc giam giữ – và GĐPTVN thì đã phải kiên trì sinh hoạt, và phát triển, trong suốt 20 năm, để đến năm 1995, chỉ thị 01 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ mới xác nhận danh hiệu GĐPT, để rồi trên cơ sở đó, Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam sau này mới có từ GĐPT, đặt vấn đề quản lý GĐPT.
Hợp pháp hay không hợp pháp, không thành vấn đề, vì GĐPT đã tồn tại như một thực thể trong nếp sinh hoạt Phật Giáo Việt Nam, và tổ chức GĐPT chỉ đơn thuần hoạt động trên lĩnh vực giáo dục, góp phần vào việc xây dựng xã hội bằng cách đóng góp cho xã hội những công dân tốt, những học trò ngoan và những người con hiếu. Nếu GĐPT là một tổ chức có hại cho xã hội, đến sự an nguy của chính quyền thì chắc chắn rằng GĐPT sẽ không thể nào tồn tại được suốt 30 năm qua. Nhưng có điều: đúng theo sách lược của “Đề tài báo kháo khoa học của Trung Ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản”, chính quyền đã cho phép Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chấp nhận từ “GĐPT” trong Hiến Chương để “quản lý GĐPT” trên cơ sở: các đơn vị GĐPT sinh hoạt tại các ngôi chùa, đồng thời với chính sách “quản lý hộ khẩu”. Vị trụ trì phải chịu trách nhiệm về mọi sự hoạt động của GĐPT, nên GĐPT đã phải chịu không ít những áp lực gián tiếp từ nơi Giáo Hội, trực tiếp từ công an phòng bảo vệ chính trị nên một số đơn vị GĐPT đã phải nhận phương án “Tuỳ duyên bất biến”.
Khi giáo quyền kết hợp với thế quyền, hay chính xác hơn, giáo quyền là công cụ của thế quyền, thì sự phân rẽ của GĐPT cũng chỉ là lẽ đương nhiên, các Huynh Trưởng lãnh đạo thuộc hệ thống Phân Ban đã “an tâm” khi chọn cho mình cái áo khoác “hợp pháp” với lý luận “phẩm chất người lãnh đạo phải biết quý trọng quần chúng, phải bảo đảm an toàn cho quần chúng”(?) – và biện minh cho hành động là tinh thần “Tùy duyên bất biến”.
Hai bản Nội Quy GĐPT đã được áp dụng song hành, GĐPT đã bị phân đôi từ một cái gốc hình thành của lịch sử. Các em Đoàn Sinh vẫn vô tư đến chùa, màu áo lam vẫn hòa mình trong lòng xã hội, vượt ra ngoài biên giới của đất nước Việt Nam – Người lãnh đạo GĐPT lắng lòng để nhìn lại chính mình và hãy nhớ rằng: Các em mình rồi sẽ trưởng thành, những thế hệ Huynh Trưởng tương lai, những người nối tiếp dòng lam sử sẽ là người phán xét sự hoạt động của các thế hệ đàn anh.
PHẦN KẾT
Để có một cái nhìn đích thực về hình ảnh người lãnh đạo, nên tập luận văn này đã cố gắng trình bày những vấn đề liên quan đến đề tài của luận khóa, do đó nó có khuynh hướng viết nhiều về chính trị. Biết tránh sao được khi bản chất của đề tài là NGƯỜI LÃNH ĐẠO, dẫu cho là lãnh đạo một đoàn thể thuần túy giáo dục như GĐPT.
Vì khi nói đến lãnh đạo là phải nói đến hiện tượng quyền lực của một người, một nhóm nhỏ người có tác động, có ảnh hưởng đến nhiều người khác, nói đến tư cách pháp nhân của một người sẽ chịu trách nhiệm về các hoạt động mà tổ chức hay đoàn thể đó gây ra (nguồn gốc của quyền lực).
Và khi nói đến lãnh đạo là phải nói đến tầm nhìn của người vạch ra đường hướng thực hiện nhằm đưa đoàn thể đạt được mục đích của đoàn thể đó muốn vươn tới, cái nhìn ấy phải bao quát trên mọi khía cạnh xã hội, trên các mối tương quan để duy trì và phát triển tổ chức, như vậy đã là chính trị khi hiểu chính trị theo nghĩa sự khéo léo đối xử để đạt được mục đích nào đó.
GĐPT chỉ là một đoàn thể giáo dục, nhưng nếu sống trong một xã hội mà giáo dục được xác định là nhiệm vụ độc quyền của đảng và chính quyền nhằm xây dựng một mẫu người duy nhất theo quan điểm của đảng lãnh đạo, thì sự tồn tại của một tổ chức giáo dục đứng ngoài sự lãnh đạo của đảng đã là vấn đề lớn của chính trị, nếu hiểu theo nghĩa chính trị là những vấn đề tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước.
Nhưng nếu cho rằng chính trị là những hoạt động của một tổ chức, một đoàn thể nhằm đấu tranh dành quyền điều khiển nhà nước thì GĐPT không phải là một tổ chức chính trị – bởi Đoàn Sinh và Huynh Trưởng GĐPT không có những đặc quyền trong guồng máy quyền lực của nhà nước. Và tổ chức GĐPT chưa bao giờ dựa vào những thế lực để tạo uy thế cho tổ chức mình.
Vậy danh từ “chính Trị” bản thân nó mang nhiều ý nghĩa nhưng cần phân biệt vấn đề ý thức chính trị – và hoạt động chính trị để giành quyền lực điều khiển đất nước là hai lãnh vực khác nhau.
Ngày nay người ta hiểu: Chính trị là đời sống bình thường của con người trong xã hội, bởi có những điều mà ta thấy chẳng liên quan gì đến chính trị như thích một thứ hàng tiêu dùng nào đó, để rồi mua nó, đơn giản thế thôi, nhưng nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy: Yêu thích là lãnh vực theo cảm tính cá nhân, nhưng khi quyết định mua loại hàng được sản xuất trong nước hay từ nước ngoài lại liên quan đến nền kinh tế của đất nước, liên quan đến mối bang giao quốc tế, liên quan đến vấn đề tổ chức đời sống trong xã hội, thì đó lại nằm trong sự bao hàm của lãnh vực của chính trị.
Chính trị là bản chất của xã hội loài người, vì con người khi được sinh ra, là sinh trong cộng đồng của một dân tộc, một quốc gia, nên con người không thể từ chối những định chế xã hội sẵn có, không thể từ chối sự tuân thủ luật pháp của quốc gia đó, và như thế là đã phải sống trong một nền sinh hoạt chính trị đã được thiết lập với guồng máy cai trị quốc gia. Trước cuộc sống thực tế đang diễn ra, con người có thể lên tiếng đồng ý hay phản kháng và có quyền đòi hỏi những thứ quyền căn bản của con người khi nó có được xã hội đó tôn trọng hay không? – Những thứ quyền ấy đã được cộng đồng quốc tế công nhận trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Đồng ý hay phản kháng khi quyền của mình bị xâm phạm là biểu lộ một thái độ chính trị, đó cũng chỉ là điều tự nhiên.
Do đó, nhận thức về sự tồn tại và phát triển của tổ chức GĐPT mà mình chịu trách nhiệm lãnh đạo trong bối cảnh thời đại của một xã hội mà mình đang sống là điều phải được đặt ra, nên dù có gán ghép nó mang màu sắc chính trị cũng không có gì là quan trọng, mà điều quan trọng là người lãnh đạo phải biết vạch ra các phương án, vận dụng một cách khéo léo thích hợp với hoàn cảnh xã hội nhưng không được làm mất đi cái bản chất của GĐPT, đó là sự thể hiện tinh thần “tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên của đạo Phật”.
Nhưng đồng thời đó cũng là điều mà người ta thường hay lạm dụng, sử dụng để biện minh cho hành động – Người lãnh đạo GĐPT cần phải nắm rõ bản chất của tinh thần này. “Tuỳ duyên bất biến” nghĩa là tùy theo cơ duyên mà duyên với ngàn sai vạn biệt, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi. “Bất biến tùy duyên” nghĩa là tùy theo duyên mà hiện ra vạn hữu, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi.
Để rõ nét, cần phải đặt vấn đề: Trong sự sinh hoạt GĐPT cái gì là tuỳ duyên, cái gì là bản chất cần phải tôn trọng, vì mất nó là GĐPT sẽ chuyển qua hình thái khác, biến đổi thành một tổ chức khác, chứ không còn là GĐPT, một tổ chức có một quá trình 70 năm đi cùng đạo pháp và dân tộc.
Trong quá trình hình thành và phát triển, bản thân tổ chức GĐPT đã tuỳ duyên, tự mình chuyển đổi để thích hợp với nhu cầu của xã hội, để đáp ứng từng thời đại sống, nếu so sánh với lúc ban đầu của Đoàn Đồng Ấu Phật Tử thì tổ chức GĐPT đã thay đổi nhiều từ hình thức sắc phục; chương trình tu học, huấn luyện; danh hiệu; cho đến cả mục đích của GĐPT – nhưng sự thay đổi này đã phản ảnh được sự thăng tiến của tổ chức, và nhất là phải được thông qua trong các kỳ Đại Hội Huynh Trưởng.
Bên cạnh những sự thay đổi ấy, GĐPT vẩn luôn giữ được cái tinh túy, không thay đổi, tạo thành mạch sống truyền thừa của GĐPT:
– Tổ chức giáo dục tự nguyện trên nền tảng Giáo Pháp của Đức Phật.
– Luôn gắn bó với Đạo Pháp và Dân Tộc.
– Không dựa vào bất kỳ một thế lực nào – và cũng không để cho bất kỳ một thế lực nào lợi dụng.
– Sự sinh hoạt và điều hành của GĐPT phải đặt trên căn bản Lục Hoà Cộng Trụ với tinh thần tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
– Tôn trọng Nôi Quy, Quy Chế Huynh Trường, vì đó là văn kiện pháp quy, thuộc tài sản sở hữu của tổ chức GĐPT, và chỉ có GĐPT mới có quyền tu chỉnh, sửa đổi.
Cũng chính vì cái bất biến đó mà tổ chức GĐPT đã gặp bao điều khó khăn trong sự tồn tại và phát triển của mình, đồng thời đó cũng là niềm tự hào của các thế hệ Huynh Trưởng khi đứng trước sự phán xét của dòng Lam Sử và thế hệ đàn em.
Con chim đầu đàn đã là hình ảnh của người lãnh đạo GĐPTVN; khả năng định hướng, biết tiên liệu những tình huống có thể xảy ra để vạch cho đàn một hướng bay thích hợp là trách nhiệm của nó; sự sống của đàn đặt nào khả năng nhận định của nó trước mọi vấn đề, do đó nó phải có một cái nhìn tổng quan, đó chính là tầm mắt của người lãnh đạo.
Trong kho tàng thần thoại của các dân tộc có câu chuyện: Thế giới này chịu ảnh hưởng của các vị thần: Thần sấm, thần mưa, thần gió, thần nắng… Vị thần nào cũng cho rằng mình tài giỏi hơn tất cả, xứng đáng làm người đứng đầu. Tranh cãi nhau mãi không giải quyết được vấn đề, bèn cùng nhau tổ chức tranh tài. Dưới tài năng của các vị thần, trái đất đã trải qua những đau khổ: lúc thì nắng hạn, thiếu nước cỏ cây không sống được, lúc thì giông bão lụt lội, cuốn trôi tất cả ruộng vườn hoa màu của người dân ra biển cả… Trong số những vị thần đầy tài năng kia, có một vị thần không có khả năng làm được gì cả, nhưng có điều vị thần ấy biết khi nào thì nên mưa, khi nào thì nắng. Dưới sự điều khiển nhịp nhàng đó người dân được sung sướng vì tất cả các vị thần đã đáp ứng được những nhu cầu cần thiết của mình. Vị thần đó trở thành Thần của những vị thần: tức là Người Lãnh Đạo.
Trên quan điểm đó tập luận văn này được viết lên để góp một phần nào đó trong công việc xây dựng một nền tảng lý thuyết cho GĐPTVN.
NGUYÊN LINH