Làm chủ cảm xúc và các mối bất hòa

 

 

Thật khó mà đi thẳng vào vấn đề, vì đặt vấn đề đã là sai từ căn bản. Kinh nói: “Này Ānanda, có năm thủ uẩn. Ở đây, Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt. Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc. Đây là thọ, đây là sự tập khởi của thọ, đây là sự đoạn diệt của thọ. Đây là tưởng… Đây là hành… Đây là thức, đây là sự tập khởi của thức, đây là sự đoạn diệt của thức. Trong khi vị ấy an trú, tùy quán sự sanh diệt của năm thủ uẩn này, nếu có ngã mạn (asmiṃmāno) nào (khởi lên) đối với năm thủ uẩn, ngã mạn ấy được đoạn tận. Sự kiện là như vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: “Phàm có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đã đoạn tận ngã mạn ấy.” Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Những pháp này, này Ānanda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc Hiền Thánh, siêu thế, vượt ngoài tầm của Ác Ma (kinh Đại Không).

Hiện tượng ngoại biên tác hưởng tâm thức, biến hiện tượng méo mó theo tưởng thức, làm thành quan điểm cá biệt; nhận thức cá biệt biến thành tư tưởng cá biệt; tự nhận thức chân thực trong biên độ nhất quán. Trước ngôn ngữ xuôi thuận, cảm nhận hài hòa, hoan hỷ phát khởi; cũng thế, nghịch nhĩ từ âm lực đối tượng, tạo sóng âm phản ứng, phiền não khởi sanh. “Ở đây, Tỷ-kheo cần phải đoạn tận chúng khi vị ấy tùy quán sự sanh diệt.” Thật vậy, sanh diệt là hiện tượng, bám trụ hiện tượng sanh diệt sẽ là giòng chảy sinh diệt; đoạn tận chúng là đoạn tận sinh diệt. “Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn diệt của sắc.” Sắc đã là vậy, thì thanh trần tập khởi do đâu? Phải chăng chúng chỉ là những sóng âm nhất thời truyền tải tác động nhĩ căn, được tưởng thức phân biệt đúng sai, tốt xấu, hay dở… biến thành chủng thức, làm hạt giống cho hàm tàng thức, để rồi:

Sơ biến hành xúc đẳng
Thứ biệt cảnh vị: dục
Thắng giải niệm, định, huệ
Sở duyên sự bất đồng.
(Duy Thức Tam Thập Tụng).

Sắc, thanh, hương, vị, xúc… cũng đều phủ lớp vọng tưởng méo mó, tác dụng ngược làm khổ đau cho chính chủ. Vậy tập khởi của sắc là gì?

Do bỉ bỉ biến kế
Biến kế chủng chủng vật
Thử biến kế sở chấp
Tự tánh vô sở hữu.
(Duy Thức).

Chính chủng chủng biến kế sanh nên gọi là duyên sanh, đã là duyên sanh tức không thật. Cảm xúc buồn vui thương giận cũng thế, tưởng thức đánh lừa cảm xúc đưa đến khổ đau. Cái không thật cứ ngỡ là thật, huân tập chủng tử bất toàn, nên gọi là:

Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức.

Do nhất thiết chủng thức
Như thị như thị biến
Dĩ triển chuyển lực cố
Bỉ bỉ phân biệt sanh.

Vì vậy, Đức Phật dạy: Này Ānanda, Tỷ-kheo tuệ tri như sau: “Phàm có ngã mạn nào đối với năm thủ uẩn (khởi lên) nơi ta, ta đã đoạn tận ngã mạn ấy.” Ở đây, vị ấy ý thức rõ ràng như vậy. Những pháp này, này Ānanda, thuần nhất liên hệ đến thiện, đều thuộc Hiền Thánh, siêu thế, vượt ngoài tầm của Ác Ma (kinh Đại Không).

“Đoạn tận ngã mạn” là đoạn tận vọng tưởng, đoạn tận vọng tưởng là đoạn tận mọi duyên sanh, tức làm chủ được cảm xúc, vì cảm xúc là hiện tượng biến động tâm thức, rơi vào nhị biên của mọi hiện tượng. Cái gọi là bản ngã thường tại chỉ là giả danh trong thế giới nhị nguyên, đó chỉ là giả hợp tạo thành ảo giác miên tục.Trong tương quan hỗ tác, sự giao hỗ y như rằng khởi sanh hiện tính nhân quả, hiện tượng nhân quả mang trạng tính vô thường nên gọi là khổ đau. Vì thế, theo tinh thần Phật Giáo phát triển (Phật Giáo Đại Thừa) thông qua kinh Kim Cang:

Đức Phật bảo ngài Tu-bồ-đề: “Các vị đại Bồ-tát phải hàng phục tâm mình như thế này: Bao nhiêu những loài chúng sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có-hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi Vô-dư Niết-bàn. Diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như thế, mà thiệt không có chúng sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu-bồ-đề! Nếu vị Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thời chẳng phải là Bồ-tát.”

Bồ-tát không còn trụ tướng chúng sanh, tướng thọ giả… khi độ tận chúng sanh thì hà cớ chấp thủ cảm xúc bởi tưởng thức!

Thế thì đâu là chân ngã? Đức Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” Bạch Đức Thế-Tôn! Nếu như vị A-la-hán nghĩ thế nầy: Ta chứng được quả vị A-la-hán, thời chính là còn chấp trước tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả…

Như vậy quả vị chứng đắc cũng là hư vọng vì còn trụ tướng chứng đắc. Chân ngã là thể tính phi tướng phi tánh, thoát vòng đối đãi nhân quả, vô thường. Tinh thần bất nhị cũng chỉ là giả lập tạm lìa thoát vọng tưởng, vượt khỏi sự xung đột tâm thức và cảm thức nội tại.

Giải quyết được mối bất hòa từ cảm thức tức làm chủ được cảm xúc, thoát ly khổ đau buồn vui, trạng thái an nhiên tự tại hiện khởi. Bất hòa tự thân được giải tỏa thì ngoại cảnh không thể tác hưởng tâm thức, Tịnh Độ hiện tiền được chế tác, gọi là giải thoát. Phải chăng “Nhất thiết duy tâm tạo?”

MINH MẪN – 20/7/2019

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.