Đúng chu kỳ, mùa Xuân lại đến. Cách đây mấy hôm, một người bạn văn – cũng là bạn đạo – có biếu cho tôi một cành hoàng mai. Cành mai khá lớn, hoa lá chen lẫn trên cành khúc khuỷu tạo thành một sự sắp xếp rất tinh tế, mỹ thuật của thiên nhiên.
Tôi trang trọng đặt cành hoa vào bình sứ lớn, chưng ngay phòng giữa nhà – là bàn thờ Tổ. Hằng ngày, theo dõi từng chùm hoa vàng nở, nghe thấy một mùi hương thoang thoảng dìu dặt, tôi thầm chiêm phục và biết ơn loài hoa cao quý ấy.
Cành hoa mai đã khiến tôi chợt nhớ tới bài “tụng” của ngài Hoàng Bá – Hy Vận(1) đã đọc trong một buổi thượng đường chỉ dạy đại chúng:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bã thằng đầu tổ nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc hoa mai phốc tỷ hương.
Bài dịch:(2)
Vượt cõi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.
Quả thật, cây mai đã phải trải qua cái giá lạnh, mưa bão của mùa đông dài dặc đen tối, để chớm xuân trổ lá, kết hoa… Hoa mai là loài hoa tượng trưng rõ nét và đầy đủ nhất cho cái đẹp và ý nghĩa của mùa xuân. Những chùm hoa vàng tinh khiết, mầu nhiệm kia như được tích tụ từ nỗi giá lạnh, giông bão vùi dập mà không hề nao núng; để mở sáng một mùa xuân ấm áp, hạnh phúc cho muôn loài.
“Chẳng phải một phen xương lạnh buốt”. Nếu cây mai không chịu được một mùa đông với bao vùi dập tan tác của cái lạnh, của gió, của mưa dầm, thì làm sao kết được những cánh hoa mới lạ tinh anh kia – và nhất là, làm thế nào mà ấp ủ một mùi hương thanh quý riêng biệt như thế?
“Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương”. Người học Phật cũng được ví như cây mai, như hoa mai, như mùi hương thiêng liêng của hoa. Nghĩa là người tu cũng phải trải qua kiên tâm vững bước trên tám con đường đạo Phật (Bát Chánh Đạo) “mùa đông”; của sự mài giũa Giới Định Tuệ; của lòng trì niệm không ngưng nghỉ bốn câu kệ trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật; dũng mãnh và tinh tấn để tự thắng mọi chướng nghiệp – và luôn xả thân vì đại nguyện – thì “hoa Tâm” mới sanh, mới “ngửi” được mùi hương nhiệm mầu của đạo pháp.
Người học Phật không thể không có “một phen xương lạnh buốt” mà có thể “ngửi thấy mùi hương” an lạc, giải thoát chơn chính của pháp Phật (hay tự mình tỏa hương vi diệu của niềm an lạc, giải thoát) được.
Sự nhiệm mầu vô tận “bất khả tư nghì” của “hoa Đạo” đến với “Tâm” người tu, để “hoa Tâm” nở ra tỏa ngát hương, càng phải cần có những “mùa-đông-không-ngày-tháng” nhiều hơn thế nữa…
Nhớ Tổ Huệ Khả xưa, suốt đêm dầm mình trong mưa tuyết lạnh thấu xương, chờ mặt trời rạng lên, chặt đứt một cánh tay để được Tổ Đạt Ma nhận làm đệ tử; và Lục Tổ Huệ Năng:
…Tám tháng
Đeo đá giã gạo nhà trù
Mười lăm năm
Trú ẩn rừng sâu
Ngày xuống núi tóc râu bạc thếch…(3)
Những tấm gương cầu học đạo, xả thân vì đạo, vì đại nguyện của các bậc Tổ, của chư vị Pháp Sư, Thiền Sư, Giảng Sư… luôn là nguồn sáng soi dắt người học Phật chúng ta luyện tâm, bền chí…
Hoa Mai – Hoa Tâm – Hoa Đạo của mùa Xuân trọng đại ấy có thể sẽ rất gần, và cũng có thể sẽ rất xa. Một sát-na, hay trọn một đời, nhiều đời… Chúng ta – những người học Phật, chỉ nên biết luôn giữ sáng “Tâm” mình và tinh tấn mà tiến bước…
Hoa Tâm ắt sẽ nở hoa, đượm hương bất tuyệt trong lòng mọi người. Đó là mùi hương miên viễn còn mãi bên đời…
MANG VIÊN LONG
(1) Ngài Hoàng Bá là đệ tử của Ngài Bá Trượng. Bá Trượng là đệ tử của Ngài Mã Tổ. Mã Tổ là đệ tử Ngài Hoài Nhượng, Hoài Nhượng là đệ tử của Ngài Lục Tổ Huệ Năng. Khoảng niên hiệu Đại Trung đời Đường (847–860 TL), Ngài tịch ở núi Hoàng Bá. Nhà vua sắc thụy là Đoạn Tế Thiền Sư, tháp hiệu là Quảng Nghiệp, do vậy có nơi gọi Ngài là Đoạn Tế, có nơi gọi Hoàng Bá hoặc Hy Vận. Ngài là thầy của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, người đã sáng lập dòng thiền Lâm Tế được truyền cho đến ngày nay (TVGĐPT).
(2) Luận Tối Thượng Thừa của TT Thanh Từ – Thiền Học xuất bản, 1970.
(3) Thơ của Huệ Thành.