Điều Phật Tử Việt Nam ít biết về ngọn “lửa thiêng soi toàn thế giới” của Bồ-tát Quảng Đức trong ca khúc Việt Nam – Việt Nam

“VIỆT NAM, VIỆT NAM” là một chung khúc  – theo cách gọi của Cố nhạc sỹ Phạm Duy – kết thúc bản Trường Ca “Mẹ Việt Nam” do ông khởi soạn tháng 11 năm 1963 và hoàn tất vào tháng 5 năm 1964.

Trường ca “Mẹ Việt Nam” được viết với tổng hợp rất nhiều thể loại: ngâm, lý, kể, hò, ru, hát luyện, ngâm oán, kinh cầu, hành khúc, dạ khúc, tình ca, bi ca, âu ca… và gồm có tới 5 phần với 22 đoản khúc, ca khúc và chung khúc. Phần mở đầu – “Đất Mẹ” với các đoản khúc: Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Mẹ đón Cha về. Phần II – “Núi Mẹ” với: Mẹ hỏi, Mẹ bỏ cuộc chơi, Mẹ trong lòng người đi, Mẹ trả lời, Mẹ hóa đá. Phần III – “Sông Mẹ” với: Muốn về quê mẹ, Sông còn mải mê, Sông vùi chôn mẹ, Sông không đường về, Những dòng sông chia rẽ. Phần IV – “Biển Mẹ” với:  Mẹ trùng dương, Biển Đông sóng gợn, Thênh thang thuyền về, Chớp bể mưa nguồn, Phù sa lớp lớp mây trời cuộn bay, Mẹ Việt Nam ơi; và “Chung khúc“: Việt Nam, Việt Nam.

Gọi là ‘chung khúc’ nhưng “Việt Nam, Việt Nam” vẫn thường được trình diễn như một bài hát độc lập.  Nhạc phẩm này từng là một trong những bài hát cộng đồng rất thịnh hành, nhất là trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh và các tổ chức thanh thiếu niên tôn giáo, Hướng Đạo, các phong trào Du Ca và cả trong quân đội ở miền Nam trước năm 1975. “Việt Nam, Việt Nam” vang vang sôi nổi trong lớp học, sân trường; trong những “Đêm Không Ngủ”, buổi “Hát Cho Dân Tôi Nghe”; giữa vòng tròn “Du ca”; trên đường phố; trên sân khấu công diễn quần chúng; và trong các cuộc diễn binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa…

Bài ‘chung khúc’ Phạm Duy viết cho ‘Mẹ Việt Nam’, cho dân Việt Nam và cũng là riêng cho tâm nguyện của ông nửa thế kỷ trước, cuối cùng trong điểm kết thúc cuộc đời ông vô hình chung đã trở thành bài ca đưa tiễn ông vào lòng ‘Đất Mẹ’ khi thân tứ đại của ông trở về cát bụi…

Vào một ngày cuối đông, những người đưa tiễn đứng vây quanh huyệt mộ, trong những phút giây cuối cùng của tang lễ, khi những cánh hoa đủ màu, những nắm đất được nhẹ thả xuống quan tài trong lòng đất… chợt tiếng một ai đó cất lên: “Chúng ta hãy hát bài Việt Nam, Việt Nam tiễn đưa Nhạc sỹ”. Một giọng hát cất lên, rồi nhiều giọng khác bắt theo nhịp, rồi tất cả mọi người cùng cao giọng bật lên tiếng hát ngày càng to, càng nhịp nhàng, hòa quyện vào nhau: “Việt Nam nghe từ vào đời, Việt Nam hai câu nói trên vành môi, Việt Nam nước tôi, Việt Nam tên gọi là người…” trong khi những cánh hoa, những nắm đất vẫn liên tục được tung lên, được thả xuống…

Ở quốc nội trong giây phút kết thúc tang lễ người nhạc sĩ tài hoa, người ta cùng hát với nhau: “Việt Nam, Việt Nam”. Ở hải ngoại, kết thúc những chương trình, những đêm nhạc tưởng niệm ông, người ta cũng cùng hát với nhau: “Việt Nam, Việt Nam”…

Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói trên vành môi
Việt Nam nước tôị
Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời.
Việt Nam đây miền xanh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời.
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu.
Việt Nam trên đường tương lai
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời.
Tình yêu đây là khí giới
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.
Việt Nam Việt Nam
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam Việt Nam muôn đời.

oOo

Trong bản “Trường ca Mẹ Việt Nam”, chung khúc – hay chúng ta có thể tự ý gọi là nhạc khúc, ca khúc, nhạc phẩm, bài ca – “Việt Nam, Việt Nam” nói  trên của Cố nhạc sỹ Phạm Duy, trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa (và cả các chế độ sau đó) đã có lúc có rất nhiều người Việt Nam muốn dùng làm Quốc Ca, vì cho rằng nó nhân bản, nhân văn, phù hợp với bản chất thuần hậu và tinh thần hiếu hòa của dân tộc Việt, còn bài Quốc ca cũ (cũng như những bài Quốc ca các thể chế khác) nghe hung hãn quá, sắt máu quá!… Mà quả thật vậy, “Việt Nam, Việt Nam” mà chúng ta đề cập trên đây nghe rất đỗi hiền hòa nhân hậu nhưng không hề có chút ươn hèn yếu đuối, thậm chí còn oai dũng: Việt Nam đem vào sông núi: Tự do – công bình – bác ái, Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau; nhưng Việt Nam trên đường tương lai nguyện sẽ đem lửa thiêng soi toàn thế giới, nguyện tranh đấu cho đời. Với tình yêu đây là khí giới, tình thương đem về muôn nơi, Việt Nam sẽ là và sẽ dùng tiếng nói đi xây tình người.

Trước đây, có lẽ người Việt Nam, người Phật Tử Việt Nam, và thú thật là ngay cả người viết những dòng hý luận này, cũng chỉ đồng tình với những quan điểm vừa nêu trên chứ không để ý – rồi sau đó có nghe nói nhưng cũng chưa tin hẵn – câu “Lửa thiêng soi toàn thế giới, Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời” trong bài “Việt Nam, Việt Nam” của Phạm Duy là nói về ngọn lửa thiêng vị pháp thiêu thân của Bồ-tát Thích Quảng Đức. Mãi cho đến khi đọc được “Hồi ký Phạm Duy” (Chương 11 & 12: Thời kỳ phân chia Quốc – Cộng) của chính người nhạc sỹ tác giả bài hát, thì bản thân mới tự xác quyết điều này. Không những thế, khi tìm hiểu lại thời điểm ông bắt đầu sáng tác (11/1963) và hoàn thành tác phẩm (5/1964), rồi chiêm nghiệm kỷ lưỡng hơn nữa ý, lời của bản nhạc, mới thấy rằng ẩn chứa trong đó, bàng bạc trong đó tinh thần tranh đấu “bất bạo động” của Ngài Quảng Đức, của Phật Giáo, của dân Việt trong tiếng kêu thương đầy hùng tráng: “Việt Nam! Việt Nam!” và chí nguyện hiền hòa nhưng dũng mãnh và bao la rộng lớn đem lửa thiêng soi toàn thế giới, Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời.

Để dẫn chứng những điều lạm bàn trên đây, xin chép lại trung thực một đoạn trong “Hồi ký Phạm Duy” (tập 2) của chính ông cũng như trong liên kết của website Phạm Duy: (https://phamduy.com/vi/van-nghien-cuu/hoi-ky-3/5658-chuong-13), nguyên văn dưới đây:

oOo

………

Chương Mười Ba – MẸ VIỆT NAM

1963. Ngày 7 tháng 5, ở Huế, Tăng Ni và Phật tử sửa soạn lễ Phật Đản, cảnh sát tới hạ cờ Phật Giáo. Ngày 8 tháng 5, lễ Phật Đản, buổi sáng có rước Phật từ chùa Từ Đàm tới chùa Diệu Đế, buổi chiều có chương trình phát thanh đặc biệt về buổi lễ ban sáng. Hàng ngàn Phật tử tụ tập trước Đài phát thanh bên bờ sông Hương để nghe những lời thuyết pháp với tinh thần chống đối chính quyền rất gay gắt của Thượng Tọa Thích Trí Quang. Cuộc tụ họp bị lực lượng an ninh tới giải tán. Xung đột xẩy ra, lựu đạn nổ và súng cũng nổ: bẩy thường dân chết, một thường dân và năm binh sĩ bị thương. Kết quả là tại Huế và tại Saigon, biến cố xẩy ra dồn dập. Bên Phật Giáo có những buổi lễ cầu siêu cho nạn nhân ở Huế, những vụ tuyệt thực, biểu tình của Tăng Ni và Phật tử. Bên chính phủ có lực lượng an ninh tới canh giữ chùa Từ Đàm, điện nước trong chùa bị cúp.

Vụ Phật Giáo càng ngày càng trở nên trầm trọng. Ngày 11 tháng 6, Thượng Tọa[*] Thích Quảng Đức tự thiêu, kéo theo bẩy vụ tự thiêu khác. Những cuộc hội họp giữa Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ do chính phủ thành lập, cũng như sự gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo Phật Giáo với Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đi đến một hòa giải nào cả. Cuối cùng Lực Lượng Đặc Biệt tấn công chùa Xá Lợi. Thượng Tọa Thích Trí Quang lánh nạn tại Tòa Đại Sứ Mỹ.

Như tất cả dân Saigon lúc đó, tuy không tham gia biến cố nhưng chứng kiến những sự việc xẩy ra, vụ Phật Giáo đấu tranh với chính quyền nhà Ngô làm tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì thấy một chính quyền độc tài có thể bị đánh đổ. Lo vì biết rằng vụ này có thể làm lợi cho chính quyền miền Bắc. Và cũng như mọi người dân trên thế giới, tôi bị rúng động trước cảnh tự thiêu của Thượng Tọa[*] Thích Quảng Đức. Thấy cái chết đó đẹp quá nhưng vì tài hèn sức mọn nên không đưa được vào tác phẩm lớn như bài thơ Lửa Từ Bi của anh Vũ Hoàng Chương. Tuy nhiên ngọn lửa thiêng này cũng được tôi ghi lại trong đoản khúc VIỆT NAM VIỆT NAM.

………

Đoạn kết của trường ca, đoản khúc Việt Nam Việt Nam là một bài ca hầu hết người Việt Nam thuộc lòng. Có những người yêu nó, muốn nó trở thành bài quốc ca. Tôi xin nhũn nhặn thưa rằng: một tác phẩm văn nghệ được tung ra quần chúng rồi là nó tuột khỏi tầm tay của tác giả. Ai muốn dùng bài hát đó làm gì cũng được nhưng phải xin phép tác giả.

………

(Hết trích).

Tấm hình minh họa trong Hồi ký Phạm Duy với dòng chú thích “Lửa thiêng soi toàn thế giới”.

Để kết thúc bài viết tản mạn này, người viết lại xin trích thêm đoạn “Việt Nam! Việt Nam!”, một phần trong “Lời mai đây cao ngút Trường Sơn”, bài của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Ngày 9/2/2013, Xóm Mới, Làng Mai, Pháp Quốc:

“…Lửa thiêng soi toàn thế giới.
Phạm Duy có nói rất rõ. Lửa thiêng đây là ngọn lửa của Hòa Thượng Quảng Đức đem từ bi xóa bỏ hận thù. Trên con đường xây dựng tương lai thì Việt Nam đóng góp cho thế giới bằng ngọn lửa thiêng đó. Không có làm khổ người. Lấy thân làm đuốc. Lấy từ bi để làm khí giới.

Lửa thiêng soi toàn thế giới.
Ngọn lửa của Hòa Thượng Quảng Đức không chỉ soi sáng cho đất nước Việt Nam, cho con người Việt Nam mà là cho tất cả thế giới.

Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời.
Tức là không chỉ tranh đấu cho đất nước riêng của mình mà là tranh đấu cho cả nhân loại. Và con đường tranh đấu là con đường bất bạo động, con đường tình thương. Chứ không phải là con đường gươm giáo.

Tình yêu đây là khí giới.
Tình thương đem về muôn nơi.
Rất là rõ ràng. Khí giới của mình là tình thương và mình muốn khắp nơi trên thế giới đều được thừa hưởng tình thương đó.

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.
Tức là tình người, tình anh chị em là mục đích, là chí hướng của Việt Nam. Việt Nam không phải chỉ để cho Việt Nam mà thôi. Việt Nam phải phụng sự thế giới, phụng sự theo con đường bất bạo động, tâm linh và tình thương.

Có rất nhiều người ở Việt Nam muốn dùng bài này để làm Quốc Ca nhưng mà chuyện đó chắc phải chờ đợi. Bài Quốc Ca cũ thì có xương, có máu quá nhiều. Bài này thì không đòi xương máu mà chỉ kêu gọi thương yêu mà thôi…”

Kỷ niệm 60 năm Pháp Nạn Phật Giáo Việt Nam (1963-2023)
QUANG MAI

oOo

[*] Trong hồi ký, tác giả (Phạm Duy) đã có sự nhầm lẫn. Giáo phẩm Ngài Thích Quảng Đức khi tự thiêu là Hòa Thượng chứ không phải Thượng Tọa [QM].

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.