Nữ cư sĩ Visakha – vị đại thí chủ của giáo đoàn thời Đức Phật

NỮ CƯ SĨ TÌ XÁ KHƯ (Visakha)

Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch và biên soạn phần Phụ lục: Cư Sĩ Hạnh Cơ
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Chùa Liên Hoa, Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County xuất bản 2005.

oOo

TVGĐPTDịch giả chuyển ngữ tác phẩm theo ngữ vựng, văn phạm cũng như dịch các giá trị chỉ số theo cách dùng chữ đương đại – Thư Viện GĐPT giữ nguyên mọi nội dung trình bày theo bản dịch kể cả những từ ngữ phiên âm danh từ riêng.

Nữ Cư Sĩ Tỳ Xá Khư (Visakha)
Vị nữ thí chủ lớn nhất của giáo đoàn thời Phật tại thế

Thời Phật tại thế, bà Tì Xá Khư (Visakha) được coi là vị nữ thí chủ quan trọng nhất của giáo đoàn. Uy tín của bà không kém gì Trưởng giả Cấp Cô Độc.

Bà là con gái của nhà triệu phú Đạt Nan Xà Dạ (Dhananjaya) ở vương quốc Ương Già (Anga)[1]. Ông ngoại của bà cũng là một nhà triệu phú ở Ương Già mà bà hết sức thương mến và quý trọng. Gia đình hai bên nội ngoại của bà đều tin Phật thuần thành.

Sau khi sinh bà được vài năm, thể theo lời mời của vua Ba Tư Nặc, cha mẹ bà đã dời lên vương quốc Kiều Tát La và cư trú tại thành phố Ta Chỉ Đa (Saketa), phía Nam thủ đô Xá Vệ, để bà ở lại quê nhà cho ông ngoại nuôi dưỡng.

Hồi bà mới được bảy tuổi, có lần Đức Phật đi hoằng hóa đến thành phố Ta Chỉ Đa. Thân phụ bà tức tốc cho người về quê, bảo bà lên ngay Ta Chỉ Đa để hầu Phật. Ông ngoại cô bé vui mừng lắm, liền bảo cả năm trăm tì nữ của cháu ông vầy đàn trên năm trăm cỗ xe ngựa, cùng hộ tống cháu lên Ta Chỉ Đa. Tới nơi, cô bé tới trước Phật cung kính đảnh lễ rồi ngồi sang một bên nghe pháp, và cô đã hiểu rõ trọn vẹn những gì Phật dạy hôm đó!

Kinh điển diễn tả rằng, Tì Xá Khư có sức mạnh như đàn ông, nhưng lại duyên dáng mỹ miều từ thuở còn thơ. Tóc bà láng mượt như đuôi công; môi đỏ hồng tự nhiên như trái chín; răng trắng như ngà, khít khao đều đặn và sáng ngời như hai hàng ngọc; da mịn màng như cánh sen, cho tới tuổi già mà vóc dáng vẫn xinh đẹp như thời son trẻ. Đã có vẻ đẹp toàn bích của người phụ nữ, bà còn có trí tuệ hơn người, vừa sáng suốt trong việc đời, vừa thông minh trong việc đạo.

Hồi Tì Xá Khư được mười sáu tuổi, một hôm cô cùng với nhiều tì nữ ra sông tắm. Thình lình một trận mưa to đổ xuống. mọi người đều hối hả chạy vào núp mưa trong một căn nhà bỏ trống, riêng cô thì không chạy, cứ đi vào nhà một cách khoan thai.

Lúc bấy giờ ở kinh đô Xá Vệ có ông trưởng giả triệu phú Di Già La (Mrgara/Migara) đang nôn nóng kiếm cho con trai ông một cô vợ thật môn đăng hộ đối. Cậu này hoàn toàn không thích lấy vợ, nhưng bị cha ép buộc quá, đành nói đại:

– Chỉ khi nào ba tìm được một cô gái mà tóc láng mướt như đuôi công, môi đỏ hồng tự nhiên như trái chín, răng trắng khít khao đẹp như ngọc, da mịn như cánh sen, thì con mới chịu cưới cô ấy làm vợ.

Chàng ta tưởng rằng cứ thách khó như thế để cha khỏi bắt mình lấy vợ, chứ trên đời làm gì có cô gái nào như vậy; nhưng ông trưởng giả thì cho là thật, bèn sai rất nhiều gia nhân chia nhau đi khắp nẻo để tìm cho được cô gái có đầy đủ những điểm đúng như ý muốn của con trai ông.

Hôm đó, mấy gia nhân của ông trưởng giả đi tìm vợ cho cậu công tử, tình cờ cũng ghé vào căn nhà trống kia để trú mưa. Thấy Tì Xá Khư đi vào nhà một cách chậm rãi chứ không hấp tấp chạy như mọi người thì lấy làm lạ, bèn hỏi lý do. Cô bình thản trả lời:

– Tôi còn có thể chạy nhanh hơn mọi người nữa kia, nhưng tôi đã không làm vậy. Nếu có vị vua kia đang mặc triều phục, bỗng nhiên xăn áo quần lên hối hả chạy vào điện thì ắt là không thích đáng. Một thớt voi ngự oai nghiêm đường bệ, mình mang đầy đồ trang sức đẹp đẽ mà không bước đi dõng dạc, lại đâm sầm chạy tuốt ra đường thì thật là chướng mắt. Một tu sĩ thanh nhã khả kính mà không bước đi khoan thai, lại chạy nhảy làm xốc xếch y bát thì không thể không bị chỉ trích. Cũng như thế, người phụ nữ mà chạy ngoài đường như đàn ông thì sẽ mất hết nết hạnh đoan trang thùy mị.

Trong khi Tì Xá Khư nói, những người kia vừa chú ý nghe, vừa để mắt quan sát hình vóc của cô. Cả bọn họ đều vui mừng, vì quả thật cô gái này giống y hệt mẫu người mà họ đang phải tìm cho ra. Họ tức tốc chạy về trình báo. Trưởng giả Di Già La mừng quá, lập tức đi Ta Chỉ Đa, đến nhà trưởng giả Đạt Nan Xà Dạ xin cưới Tì Xá Khư cho con trai mình.

Đám cưới được tổ chức thật linh đình dưới sự đỡ đầu của vua Ba Tư Nặc. Đám rước dâu tiến vào thủ đô một cách uy nghi, trang trọng. Trưởng giả Di Già La đích thân đi rước con dâu về. Cô dâu ngồi trong một chiếc song mã lộng lẫy dẫn đầu; tiếp theo là hàng trăm chiếc xe ngựa khác chở các tì nữ của bà; rồi đến hàng trăm chiếc xe chở của hồi môn, gồm năm trăm chín mươi triệu đồng tiền vàng và vô số các vật phẩm bằng vàng, bạc, đồng, rồi còn quần áo, dầu thơm, gạo nước, nông cụ v.v… Ở đầu và cuối đoàn rước dâu có ngự lâm quân của hoàng gia đi hộ tống do đích thân vua Ba Tư Nặc chỉ huy. Lễ cưới huy hoàng đã được tổ chức tại lâu đài của gia đình chú rể. Rất nhiều quà mừng quý giá của vua, các quan đại thần, bạn bè và dân chúng thủ đô được gởi tới. Tì Xá Khư nhận xong lại đem chia cho tất cả những kẻ nghèo khó. Bởi vậy, ngay từ lúc đó, bà đã được dân chúng ca ngợi về sắc đẹp lẫn đức hạnh. Bà cũng được những người bên nhà chồng tỏ lòng quý trọng. Bởi vậy, bà đã sống những ngày đầu của cuộc sống mới vô cùng êm ả, hạnh phúc.

Nhưng có một điều, cả cha chồng và chồng bà đều là đệ tử trung kiên của giáo phái Ni Kiền Tử (Nigrantha Jnataputra / Nigantha Nataputa)[2]. Một ngày kia, cha chồng bà thỉnh về nhà rất đông các đạo sĩ lõa thể của giáo phái này. Ông bảo bà ra đảnh lễ những vị mà ông gọi là A-la-hán. Thoạt nghe danh từ “A-la-hán”, bà rất vui mừng, tưởng là các vị đệ tử Phật, bà vội vã thay quần áo đẹp, trang điểm lại đầu tóc, rồi bước ra phòng khách; nhưng vừa trông thấy các vị đạo sĩ kia, bà quày quả quay gót trở về phòng. Bà nói: “Trong thời đại này, những vị Thánh thật sự chỉ có Đức Phật và các vị đệ tử của Ngài. Những đạo sĩ lõa thể đang ngồi trong phòng khách không phải là những vị thánh; vì nếu đúng là thánh thì họ đã không xuất hiện trước mặt mọi người trong phong cách xấu hổ như vậy mà không biết ngượng”. Các vị đạo sĩ rất tức giận, hạch tội ông trưởng giả tại sao đem về nhà mình một tín đồ của Đức Phật. Họ yêu cầu ông đuổi bà ra khỏi nhà tức khắc. Ông cũng giận nhưng không dám đuổi bà, bởi vì làm như vậy, không những sẽ chọc giận ông sui gia triệu phú, mà còn xúc phạm tới đức vua Ba Tư Nặc nữa. Cho nên ông đã phải hết lời xin lỗi cho các vị đạo sĩ nguôi giận.

Một buổi sáng sau đó mấy ngày, khi ông trưởng giả ngồi vào bàn ăn sáng thì có một vị Tỳ-kheo vào nhà khất thực. Tì Xá Khư đang sửa soạn thức ăn cho cha chồng, liền đứng tránh sang một bên, chủ ý để ông trông thấy rõ nhà sư. Dù đã thấy nhà sư, nhưng ông cứ lơ đi, tiếp tục ăn. Thấy thế, bà ra bạch với nhà sư:

– Bạch đại đức! Xin thỉnh đại đức hoan hỷ bước sang nhà khác. Cha chồng con đang dùng những món ăn thiu.

Ông trưởng giả nghe bà nói thế thì đùng đùng nổi giận, quát tháo ầm ĩ, rồi đuổi bà ra khỏi nhà. Bà vốn là người thuần hậu, biết tôn trọng mọi người cũng như phép tắc gia đình, nhưng không thể chấp nhận lối đối xử hung bạo như thế được. Bà thưa lại một cách từ tốn:

– Thưa cha! Không phải cha đem con về đây như mua một người nô lệ. Một cô gái có chồng, khi bị nhà chồng trả về cho cha mẹ thì phải có lý do chính đáng. Trước khi con về đây, cha mẹ con có lập một hội đồng gia tộc để xét xử con mỗi khi con làm lỗi. Vậy xin cha hãy mời các vị ấy đến để xét xử xem con có lỗi hay không.

Ông trưởng giả chấp nhận lời cầu xin hữu lý đó, liền mời các vị trong hội đồng gia tộc của bà đến. Ông phân trần:

– Hôm ấy tôi đang ăn sáng thì con dâu tôi nói rằng tôi ăn đồ ăn dơ. Xin quý vị hãy vạch ra cho nó thấy lỗi và đuổi nó ra khỏi nhà tôi.

Bà giải thích:

– Thật ra, con đã không nói đúng hẳn như vậy. Lúc cha chồng con đang ăn sáng thì có một nhà sư vào nhà khất thực. Cha chồng con thấy mà vẫn làm ngơ, nên con đã bạch với vị sư rằng: “Xin thỉnh đại đức hoan hỉ bước sang nhà khác. Cha chồng con đang dùng những món ăn thiu”. Lời nói của con có nghĩa rằng, cha chồng con chỉ hưởng thọ phước báo còn lại của quá khứ, mà không làm được điều thiện nào trong hiện tại để tiếp tục gieo nhân lành cho tương lai.

Quý vị thân tộc đều công nhận là bà nói như thế đã không có lỗi với cha chồng, mà còn có tâm ý tốt với ông nữa, chỉ tại ông chưa kịp hiểu ra mà thôi. Ông trưởng giả cũng đồng ý như vậy, nhưng chưa hết tức giận, ông lại vạch ra chuyện khác để buộc tội bà. Ông hỏi bà giữa đêm khuya mà thắp đuốc đi với nô tì ra sau vườn để làm gì. Bà lại phải giải thích, vì hôm ấy nghe con ngựa cái ở sau nhà sắp đẻ, bà tức khắc cùng với mấy nô tì đốt đuốc ra chuồng ngựa để chăm sóc, giúp cho con ngựa đẻ xong xuôi mới vào nhà đi ngủ. Quý vị thân tộc kia nghe được chuyện đó, đều công nhận rằng, bà đã có một tình thương rộng lớn, bao trùm đến cả thú vật. Bà đã làm một công việc cực nhọc để giúp con ngựa đang đau đớn mà chưa chắc các nô tì đã làm được. Đó là hành động đáng tán dương chứ không có lỗi.

Ông trưởng giả vẫn chưa nguôi giận, bèn tiếp tục moi chuyện khác, ví dụ, trước khi về nhà chồng, bà đã được dạy nhiều điều, chẳng hạn như: “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ, hay không đem lửa ở ngoài ngõ vào trong nhà v.v…” Vậy là sao? Không cho hàng xóm lửa thì họ sống được ư? Hoặc không cần lửa của hàng xóm thì mình sống được ư? Bà lại giải thích rành rẽ: “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ” có nghĩa là con dâu thì không được nói xấu chồng hay cha mẹ chồng với người ngoài, cũng không được đem chuyện xấu của nhà chồng nói ra ngoài. “Không đem lửa ở ngoài ngõ vào trong nhà” có nghĩa là không nên nghe hoặc để tâm theo dõi, rồi đem vào nhà chồng những chuyện không hay, phiền phức ở ngoài đường.

Đến đây, ông cha chồng không còn moi được điều gì để buộc tội bà nữa, ngồi lặng thinh. Nhưng bà là người biết tự trọng, sau khi đã giải thích mọi điều để chứng minh rằng mình không phạm lỗi gì với cha chồng, bà tỏ ý muốn rời khỏi nhà, theo lời xua đuổi của ông.

Bỗng nhiên ông trưởng giả thay đổi hẳn thái độ. Ông xin lỗi bà vì đã hiểu lầm mà gây nên cớ sự. Vốn sẵn có tính khoan dung, ôn hòa của một người Phật tử, bà không oán trách cha chồng, nhưng xin một điều là từ nay ông cho phép bà được sinh hoạt trong truyền thống tôn giáo của gia đình bà. Ông trưởng giả hoan hỷ đồng ý.

Mấy ngày sau, bà thỉnh Phật về nhà thọ trai. Sau khi thọ thực, Đức Phật thuyết pháp. Ông trưởng giả tò mò ngồi sau bức mành nghe lén. Nghe Phật nói pháp xong, ông bừng tỉnh ngộ, thấy rõ được con đường giải thoát thật sự. Ông tỏ lòng biết ơn vô bờ bến đối với con dâu của ông, hoặc vô tình, hoặc cố ý, đã dẫn dắt ông vào chánh đạo. Ông đã tuyên bố một cách cảm động trước mặt bà: “Tì Xá Khư! Từ nay con không phải là con dâu của cha nữa, mà cha sẽ coi con là một bà mẹ, mẹ của cha trong đạo pháp”. Và nhân đó, bà đã được mọi người gọi bà vớì biệt hiệu là “Lộc Mẫu” (Migara, tên ông trưởng giả có nghĩa là “lộc”, tức là con nai).

Nhờ thông minh, khôn khéo và nhẫn nại, dần dần bà cảm hóa được tất cả mọi người trong gia đình nhà chồng, kể cả chồng của bà, cởi bỏ tà kiến, quy y Tam Bảo, trở thành một gia đình Phật tử, sống trong hạnh phúc và an vui.

Mỗi buổi sáng bà túc trực ở nhà để cúng dường cho chư Tăng vào nhà khất thực. Xế chiều bà thường đến tu viện để nghe pháp và xem chư Tăng có cần dùng thứ gì không. Bà phát tâm thường xuyên hộ trì chư Tăng Ni tám việc: 1) cúng dường áo tắm mưa; 2) dâng thức ăn cho chư Tăng Ni từ các nơi đến thành Xá Vệ; 3) dâng thức ăn và các vật dụng cần thiết cho chư Tăng Ni rời thành Xá Vệ đi du hóa phương khác; 4) dâng thức ăn thích hợp cho chư Tăng Ni bị bệnh; 5) dâng thức thức ăn cho quý vị phải săn sóc bệnh nhân, không đi khất thực được; 6) dâng thuốc men cho chư Tăng Ni bị bệnh; 7) dâng cháo buổi sáng cho chư Tăng Ni; 8) dâng khăn và áo tắm cho chư Ni. Cả tám điều đó đều được Phật chấp thuận.

Một ngày nọ, tu viện Kỳ Viên có lễ lớn, bà Tì Xá Khư đã phục sức thật đẹp để đi chùa. Tới nơi, trước khi vào lễ Phật, bà cởi chiếc áo choàng quý giá gói lạì và giao cho người tì nữ cầm. Sau khi nghe pháp, bà ra về, và người tì nữ đã bỏ quên gói áo choàng lại tu viện. Hôm đó là ngày trực của Tôn giả A Nan. Tôn giả thấy gói áo mà không biết là của ai. Theo lời Phật dạy, Tôn giả tạm cất vào một chỗ, chờ chủ nó đến hỏi thì trao lại.

Bà Tì Xá Khư về đến nhà thì mới hay người hầu đã bỏ quên gói áo ở tu viện. Bà bảo người hầu hãy trở lại lấy chiếc áo, nhưng dặn kỹ rằng nếu chưa có ai đụng đến chiếc áo thì lấy đem về, nếu đã có vị sư nào đụng đến thì chiếc áo ấy đã thuộc về tu viện, hãy để lại đó không lấy về. Người tì nữ lên tu viện và biết là Tôn giả A Nan đã cầm chiếc áo đem cất, trở về thuật lại cho bà biết. Bà liền đến hầu Phật và tỏ ý muốn cúng dường giáo đoàn chiếc áo ấy bằng cách bán lấy tiền để dùng vào một việc gì; nhưng chiếc áo ấy không ai mua nổi, vì trị giá của nó đến 90 triệu đồng tiền vàng.

Cuối cùng, chính bà mua lại nó, rồi bà thỉnh ý Phật muốn làm gì với số tiền đó. Phật dạy nên cất thêm một tu viện nữa vì số Tăng chúng độ này đã tăng quá đông. Bà vâng lời, bèn bỏ thêm vào đó 90 triệu đồng tiền vàng nữa để xây ngôi tu viện mới ngay trên khu đất của bà ở cổng phía Đông thủ đô. Khu đất ấy nhỏ hơn khu vườn của Thái tử Kì Đà, nhưng xinh đẹp không kém, và bà cũng cúng dường luôn cho tu viện.

Công trình xây cất này do Tôn giả Mục Kiền Liên làm giám đốc. Thời gian xây cất kéo dài 9 tháng. Khu Tăng xá được xây 2 tầng, mỗi tầng có 500 phòng. Tu viện được đặt tên là Đông Viên (Purvarama / Pubbarama). Một ngôi giảng đường lớn được dựng ngay ở trung tâm khu đất, được đặt tên là Lộc Mẫu (Mrgaramatr / Migaramata). Tu viện xây cất xong, bà lại cúng dường thêm 90 triệu đồng tiền vàng để trang bị mọi thứ cần thiết phía bên trong. Mùa mưa năm đó, bà thỉnh Phật an cư tại tu viện mới này, và chính tại đây, Đức Phật đã an cư cả thảy 6 lần. Nếu kể luôn 19 lần ở tu viện Kỳ Viên, Đức Phật đã an cư tại thành Xá Vệ cả thảy 25 lần.

Ngoài tu viện Đông Viên, bà Tì Xá Khư còn nhiệt tâm ủng hộ Ni trưởng Kiều Đàm Di trong việc kiến thiết và trang bị một trung tâm tu học lớn dành cho Ni chúng ở ngoại ô thành Xá Vệ. Nhờ có trung tâm này mà Ni chúng đã thu đạt được nhiều thành quả tốt đẹp trong công phu tu học, vì được thân cận nhiều với Phật và chư Tăng.

Bà Tì Xá Khư đã đóng góp phần quan trọng trong nhiều lãnh vực khác nhau có liên quan đến Phật sự. Đôi khi bà được Đức Phật nhờ đi hóa giải những vụ bất hòa xảy ra giữa Ni chúng.

Có lần tu viện Kỳ Viên bị một giáo phái ngoại đạo vu khống là đã hãm hiếp rồi giết để bịt miệng một nữ tín đồ của họ. Cảnh sát thành phố đã vào khám xét tu viện và tìm được xác của cô gái bị chôn trong khuôn viên tu viện. Chuyện này đã gây hoang mang trong dân chúng và làm khổ tâm tất cả chư Tăng Ni và Phật tử ở Xá Vệ. Vua Ba Tư Nặc cũng bàng hoàng. Bà Tì Xá Khư quá đau buồn vì chuyện này. Bà biết là Phật và chư Tăng đã bị vu khống. Bà liền bàn bạc với Cư sĩ Cấp Cô Độc, phải tìm cách đem vụ này ra ánh sáng. Hai người liền thuê thám tử riêng (với sự giúp sức của Thái tử Kỳ Đà), trà trộn vào nội bộ giáo phái ấy để thám thính. Kết quả, các thám tử đã tìm ra hai thủ phạm đã giết cô gái kia. Cảnh sát đến bắt, họ khai rằng, các vị lãnh đạo của giáo phái đã thuê họ giết cô gái rồi đem chôn ở gần tịnh thất của Phật trong tu viện. Thế là câu chuyện vu khống đã được sáng tỏ, tất cả thoát được một ách nạn.

Do các đóng góp với lòng nhiệt thành, bà Tì Xá Khư được coi là người tín nữ có công đức nhiều nhất trong các Phật sự, và cũng là vị nữ thí chủ lớn nhất của giáo đoàn thời Phật tại thế.

Bà có tất cả 10 người con trai và 10 người con gái, tất cả đều hiếu thảo và tin Phật. Bà sống được 120 tuổi thọ./.

CHÚ THÍCH

[1] Ương Già là một trong 16 nước lớn ở Ấn Độ thời Phật tại thế, nằm ở phía Đông nước Ma Kiệt Đà.

[2] Trong thời Phật tại thế, có 6 giáo phái ngoại đạo (kinh sách thường gọi là “lục sư ngoại đạo”) được thịnh hành và có thế lực nhất trong lưu vực sông Hằng, so với các ngoại đạo khác. Họ cũng được coi là thuộc Bà-la-môn giáo, nhưng thực sự thì họ là những đoàn Sa Môn cấp tiến, có khuynh hướng tự do tư tưởng, chống lại tư tưởng cố chấp của Bà-la-môn giáo truyền thống. Sáu giáo pháo đó là (tên của giáo phái tức là tên của vị lãnh đạo): 1) Giáo phái Phú-lan-na Ca-diếp (Purana Kassapa), chủ trương thuyết hoài nghi về luân lý, cho rằng thiện ác chỉ là những nhận thức do thói quen mà có, không có nghiệp báo của thiện và ác. 2) Giáo phái Mạt-già-lê Câu-xá-lê (Makkhali Gosala), chủ trương thuyết tự nhiên, cho rằng những khổ vui của con người chỉ là sự vận hành tự nhiên, bản thân con người không can thiệp gì được. Dù ngàn năm sau có được giải thoát thì cũng là do sự vận hành của những quy luật tự nhiên chứ không phải do nổ lực tu hành. 3) Giáo phái A-kì-da Si-xá-khâm-bà-la (Ajita Kesakambala), chủ trương thuyết duy vật, cho rằng con người do đất, nước, lửa và không khí tạo thành, và sau khi chết thì không còn gì cả; cho nên con người trong khi đang sống thì phải hưởng lạc cho thỏa thích. 4) Giáo phái Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên (Pakudha Kaccayana), chủ trương thuyết bất diệt, cho rằng thân và tâm con người không bao giờ bị hủy diệt; con người do 7 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, khổ, vui và sinh mạng hợp thành, sống chết chỉ là hiện tượng bề ngoài do sự kết hợp hay tan rã của 7 yếu tố ấy, còn tự thân 7 yếu tố ấy là trường cửu, bất diệt. 5) Giáo phái San-xà-da Tì-la-chi-tử (Sanjaya Belatthiputta), chủ trương thuyết thích ứng, cho rằng, chân lý luôn luôn tùy thuộc vào trường hợp, không gian và thời gian; bởi vậy, không có một điều gì gọi là chân lý phổ quát, mà chính nhận thức của con người là thước đo của mọi sự vật. (Hai vị đệ tử lớn của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trước khi quy y theo Phật, đã từng là những cao đồ của giáo phái này). 6) Giáo phái Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử (Nigantha Nataputta), gọi tắt là Ni Kiền Tử (cũng tức là Kì Na giáo / Jaina), chủ trương thuyết vận mệnh, cho rằng mạng và phi mạng là nền tảng của vũ trụ và sự sống. Các đạo sĩ trong giáo phái này không mặc quần áo (cho nên cũng gọi là phái Lõa Thể, hay Lõa Hình), giữ giới bất sát một cách tuyệt đối. Thế lực của họ trong xã hội rất lớn cho nên thường hay chống đối và cạnh tranh với giáo đoàn Phật. Tôn giả Mục Kiền Liên luôn luôn là cái gai nhọn của họ, bởi vậy, Tôn giả đã bị họ vây đánh cho đến chết ngay trước cổng tu viện Trúc Lâm (vào năm Đức Phật tám mươi tuổi).

oOo

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(Để viết phần “PHỤ LỤC” và những chú thích, người viết đã tham khảo các tài liệu sau đây):

– Disciples of the Buddha, Zenno Ishigami (Richard L. Gage và Paul McCarthy dịch ra Anh ngữ). Kosei Publishing Co, xuất bản, Tokyo, 1989.

– Đức Phật và Phật Pháp, Narada Maha Thera (Phạm Kim Khánh dịch). Chùa Khánh An ấn hành, Paris.

– Đường Xưa Mây Trắng, Thích Nhất Hạnh. Lá Bối in lần thứ hai, San Jose, 1992.

– Phật Quang Đại Từ Điển, Tinh Vân Đại Sư chủ trương biên tập. Phật Quang Văn Hóa Sự Nghiệp Hữu Hạn Công Ty xuất bản, Đài Bắc, bản in tháng 5 năm 1997 (năm Dân Quốc 86).

– Tăng Già Thời Đức Phật, Thích Chơn Thiện. Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, Saigon, 1991.

Xem thêm & nguồn:

https://nigioikhatsi.net/viet/danhnhantg/muoidetu12.html#N%E1%BB%AF_c%C6%B0_s%C4%A9_T%C3%8C_X%C3%81_KH%C6%AF_

https://hoavouu.com/p23a8363/nu-cu-si-ti-xa-khu

https://thuvienhoasen.org/p53a10424/11-phu-luc

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.