Khi Đức Phổ Hiền chưa xuất gia học đạo, Ngài làm con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng-đà-nô. Danh hiệu Phổ Hiền xuất hiện trước tiên trong kinh Mạn Ðà La Bồ Tát, về sau xuất hiện ở nhiều kinh khác như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa nên trở thành phổ biến. Theo tín ngưỡng Phật Giáo Trung Hoa, ngài là một trong 4 vị Đại Bồ Tát: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát.
Phổ Hiền Bồ Tát tượng trưng cho Lý, Ðịnh, Hành; cỡi voi trắng 6 ngà, hầu bên tay phải của đức Như Lai. Voi trắng tượng trưng cho trí tuệ vượt chướng ngại, 6 ngà tượng trưng cho sự chiến thắng sáu căn (6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, phẩm thứ 28 – Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát – ngài Phổ Hiền có nguyện với Phật về 500 năm sau có ai thọ trì Kinh Pháp Hoa, ngài sẽ cỡi voi trắng đến hộ trì, không cho ma, quỷ đến não hại.
Ngài dạy rằng nếu chúng sinh nào nghe danh hiệu ngài; thấy và chạm đến thân ngài; hay nằm mộng thấy ngài; hoặc tưởng niệm đến ngài trong một ngày đêm hay nhiều hơn thì không còn thối chuyển. Chúng sinh nào nghe thấy thân ngài thanh tịnh thì tất được sinh trong thân thanh tịnh.
Tại Việt Nam, hằng năm tín đồ Phật Giáo cữ hành lễ vía ngài đản sanh vào ngày 21 tháng hai âm lịch và lễ vía ngài thành đạo vào ngày 23 tháng tư âm lịch.
Sự tích:
Khi chưa xuất gia học đạo, đức Phổ Hiền còn làm con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, tên là Năng-đà-nô. Nhờ phụ vương khuyên bảo nên Thái Tử mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và chúng sanh trong 3 tháng. Lúc ấy có quan đại thần Bảo Hải thấy vậy, khuyên rằng: “Nay Điện Hạ có lòng làm được việc công đức rất tốt như thế, xin hãy hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề mà cầu được thành Phật, hơn là cầu sự phước báu hữu lậu nơi cõi Nhơn, Thiên, vì cõi ấy còn ở trong vòng sinh tử”.
Thái tử Năng-đà-nô nghe quan đại thần khuyên bảo như vậy, liền bạch với Phật Bảo Tạng rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong 3 tháng, xin hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Giác, nguyện phát tâm Bồ Đề, tu hạnh Bồ Tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh được thành Phật đạo; và nguyện được cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm, bao nhiêu những sự tốt đẹp và sự giáo hóa chúng sanh đều y như thế giới của Đức Phổ Hiền Như Lai vậy”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Năng-đà-nô thái tử phát nguyện như vậy liền thọ ký rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi phát thệ nguyện rộng lớn, muốn độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật đạo. Trong khi tu Bồ Tát đạo, dùng trí kim cang mà phá nát các núi phiền não của mọi loài chúng sanh, vì vậy nên ta đặt hiệu ngươi là Kim Cang Trí Huệ Quang Minh Công Đức, trãi hằng sa kiếp làm nhiều công việc Phật sự rất lớn, rồi đến thế giới Bất Huyền ở phương Đông mà thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai, chừng đó những sự tốt đẹp trang nghiêm của ngươi đã cầu nguyện thảy đều như ý”.
Khi đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký rồi, tự nhiên giữa hư không có nhiều vị Thiên Tử ở các cõi Trời đem đủ thứ bông thơm đẹp đến mà cúng dường và đồng thinh khen ngợi.
Thái tử Năng-đà-nô thưa với Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu những sự ao ước của tôi ngày sau quả nhiên được như lời Ngài thọ ký, nay tôi kính lễ Ngài và Chư Phật mà xin làm sao hằng sa thế giới có đủ món hương rất tốt, rất thơm, mùi bay khắp trong các cõi; và mọi chúng sanh, hoặc ở trong địa ngục, ngạ quỷ cùng súc sanh, cho đến các người ở cõi Thiên Thượng nhơn gian đương mắc phải nghiệp báo gì, nếu ngửi được món hương thơm ấy, tức thì đều được thoát khổ và lại hưởng sự an vui”.
Thái tử Năng-đà-nô thưa rồi đang cúi đầu mà lễ Phật, thì trong các thế giới mười phương tự nhiên có mùi hương thơm bay khắp cả. Lúc đó mọi loài chúng sanh ngửi được mùi hương ấy, lòng dạ hớn hở, các phiền não thảy đều tiêu trừ. Năng-đà-nô thái tử nhờ Phật thọ ký như vậy, thân tâm vui mừng, bèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp.
Thái tử Năng-đà-nô nhờ công đức đó nên sau khi mạng chung, sanh ra các thân khác và các đời khác, kiếp nào cũng nhớ lời thệ nguyện mà chăm làm Phật sự và hóa độ chúng sanh, để cầu cho mau chóng viên mãn những gì mình đã ao ước, phát nguyện.
Bởi ngài có lòng tu hành tinh tấn như vậy nên đã thành Phật ở cõi Bất Huyền và nay hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sanh.
Danh hiệu:
- Việt Nam: Phồ Hiền Bồ Tát.
- Trung Hoa: Puxian – Phồn thể: 普賢菩薩; Giản thể: 普贤菩萨 (Âm ngữ: Pǔxián Púsà; Wade-Giles: P’u-hsien P’u-sa).
- Thái Lan: พระสมันตภัทรโพธิสัตว์ – Đọc như tiếng Việt là: Prak-sả-măn-taphach-phô-thi-sạch.
- Triều Tiên: Pohyon – Chosŏn’gŭl: 보현보살; Hán tự: 普賢菩薩 (Âm ngữ Romaja: Bohyeon Bosal).
- Nhật Bản: Fugen Emmei Bosatsu – Hán tự: 普賢菩薩 (Âm ngữ Romaji: Fugen Bosatsu).
- Tây Tạng: Kun-Tubzang-po – ཀུན་ཏུ་བཟང་པོ (Âm ngữ Wylie: Kun-tu bzang-po).
- Mông Cổ: Гүндэсамбуу; Самандaбадраа; Хамгаар Сайн.
- Tamil: சமந்தபத்திரர்.
- Sinhalese: සුමන ; සමන් දෙවි
- Anh Quốc: Boddhisattva of Universal Knowledge/Bounty is Omnipresent.
Ý nghĩa danh hiệu:
PHỔ HIỀN dịch âm là Tam-mạn-đà Bạt-đà-la, hoặc Tam-mạn-đà Bạt-đà (Samntabhadra). Phổ là biến khắp, Hiền là Đẳng Giác Bồ-tát, Phổ Hiền là vị Bồ Tát Đẳng Giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy mong cầu của chúng sanh mà hiện thân hóa độ.
Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng theo Phật Giáo Đại Thừa. Theo kinh Pháp Hoa, ngài là vị Bồ Tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, phía Đông cõi Ta Bà, nghe thế giới này thuyết kinh Pháp Hoa liền lãnh đạo 500 vị Đại Bồ Tát đến nghe pháp và phát tâm hộ trì chánh pháp của Đức Phật Thích Ca.
Phổ Hiền Bồ Tát được xem là người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho “Bình đẳng tính trí” tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.
Biểu tượng – Pháp khí – Thờ phụng:
Samntabhadra (Tam-mạn-đà Bạt-đà-la) biểu thị từ tâm và Phật pháp. Ngài thường sánh cùng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và cả hai vị được coi là những cao đồ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – từng là đệ tử trong các tiền thân Phật Thích Ca – Ngài là vị đầu tiên trong Ngũ Thiền Bồ Tát, tương ứng với Ngũ Thiền Phật của Bắc Tông. Trụ xứ của Ngài về hướng Đông.
Bồ Tát Phổ Hiền thường được thờ cùng với Phật Thích Ca (Sakya) và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī). Bồ Tát cỡi voi trắng 6 ngà; voi trắng tượng trưng trí huệ vượt chướng ngại, 6 ngà tượng trưng cho sự chiến thắng 6 giác quan.
Ở Tây Tạng, có thời người ta thờ ngài như là Nhiên Đăng Cổ Phật (Adi Buddha), nhưng hiện nay chỉ còn những tín đồ của tông Ninh Mã (Nyingma) giữ lối thờ phụng đó. Một vài phái Mật Tông ở vùng Hy Mã Lạp Sơn cho rằng chính vị Bồ Tát này chứ không phải Đại Nhật Phật là đấng sáng tạo ra Mật Tông Phật Giáo, trong đó tín đồ tìm cách hồi thông và hợp nhất với thần linh.
Ở Trung Hoa, Bồ Tát Phổ Hiền hầu như luôn luôn được thờ chung với Phật Thích Ca và Bồ Tát Văn Thù. Cũng tại quốc gia này, Phổ Hiền Bồ Tát được xem là một trong bốn Đại Bồ Tát, trú xứ của Phổ Hiền Bồ Tát là núi Nga Mi, nơi Bồ Tát lưu trú sau khi cỡi voi trắng 6 răng từ Ấn Độ sang Trung Quốc (6 răng ngụ ý 6 độ – 6 phương pháp tu hành để đạt tới cõi Niết Bàn; 4 chân biểu thị 4 điều như ý, 4 loại thiền định).
Tại Nhật Bản và nhiều vùng khác ngài cũng được thờ phượng qua hình tướng mật nhiệm Fugen Emmei Bosatsu (Phổ Hiền Dương Mệnh Bồ Tát).
Trong hệ thống Ngũ Phật, Phổ Hiền Bồ Tát được xem là ở trong nhóm thuộc Phật Đại Nhật (Vairocana). Biểu tượng của Bồ Tát Phổ Hiền là ngọc như ý, hoa sen, có khi là trang sách ghi thần chú của Bồ Tát.
Trong Kim Cương Thừa, tên Phổ Hiền Bồ Tát được sử dụng chỉ Bản Sơ Phật (ādi-buddha), hiện thân của Pháp Thân (dharmakāya). Vị Phổ Hiền này (không phải vị Đại Bồ Tát) được vẽ với màu xanh đậm, tượng trưng cho tánh Không. Tranh tượng cũng vẽ Phổ Hiền Bồ Tát hợp nhất với nữ thần sắc trắng, tượng trưng cho sự nhất thể. Trong phép Đại Thủ Ấn (mahāmudrā), thân của Phổ Hiền Bồ Tát là Báo Thân (saṃbhogakāya) và đóng một vai trò trung tâm.
Phổ Hiền Bồ Tát cũng thường xuất hiện trong bộ Thích Ca Tam Tôn (Sakya Shanzon) cùng với Phật Thích Ca và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi như đã nói trên. Ngài đứng bên phải, còn ngài Văn Thù đứng bên trái và có khi được vây quanh bởi 16 Thiên Thần bảo vệ cho kinh Bát Nhã.
Ngài thường xuất hiện như một Bồ Tát với vương miện và y trang đầy ắp châu báu như một ông hoàng, và trong nhiều tranh ảnh, tượng, ngài cỡi voi trắng 6 ngà; voi trắng tượng trưng cho chiến thắng 6 giác quan. Pháp khí của ngài cũng chính là biểu tượng cho sự chiến thắng sáu giác quan. Pháp khí là viên bảo châu mà ngài thường cầm nơi tay trái, hoặc tay phải cầm hoa sen, trên đóa hoa là viên bảo châu. Trong nhiều biểu tượng, một trong hai bàn tay ngài bắt ấn với ngón cái và ngón trỏ chạm nhau thành hình tam giác. Trong những hình ảnh khác, ngài cầm cuộn kinh hay Kim Cương Chử nơi tay trái.
Trong tranh tượng ở Nhật Bản, Phổ Hiền Dương Mệnh Bồ Tát được trình bày với 32 tay, ngồi trên voi trắng 4 đầu hoặc trên 4 con voi trắng. Trong hội họa Phật Giáo Mật Tông, ngài được thể hiện bằng màu xanh lục hay màu vàng. Trong những ảnh tượng của tông Nyingma Tây Tạng, Phổ Hiền Bồ Tát trong tư thế Yab-Yum ở trung tâm của Mạn-đà-la Shitro – Mạn Đà La của Thái Hòa. Tuy nhiên có khi vị Bồ Tát này cũng được biểu thị trong hình tướng phẫn nộ được gọi là Chemchok Heruka. Trong hình tướng này, ngài là vị Thần có cánh với thân hình màu nâu đỏ sẫm có 3 mặt, 6 tay và 4 chân, thường được miêu tả trong tư thế ôm lấy người phối ngẫu màu đỏ tươi.
Một số tượng thờ Phổ Hiền Bố Tát ở các chùa, các thắng tích – (Hình ảnh từ phatgiao.org.vn)
Tượng Phổ Hiền này hiện tại là tượng to nhất và cao nhất trên thế giới,
hơn nữa còn là một kiệt tác trong ngôi nhà nghệ thuật Phật Giáo.
Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi Bạch Tượng ở tịnh xá Ngọc Vạn (Khánh Hòa).
Tượng Bồ Tát Phổ Hiền cao 3,5 mét – chùa Tản Viên (huyện Ba Vì – Hà Nội).
Bàn Phổ Hiền Bồ Tát ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh).
Bàn thờ Phổ Hiền Bồ Tát chùa Vĩnh Nghiêm (Đức Quốc).
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát tại chùa Bà Đá (Hà Nội).
Bàn thờ Phổ Hiền Bồ Tát tại chùa Vạn Phật (Sài Gòn).
10 Hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền:
Một là: Lễ kính chư Phật. Hai là: Xưng tán Như Lai. Ba là: Quảng tu cúng dường. Bốn là: Sám hối nghiệp chướng. Năm là: Tùy hỷ công đức. Sáu là: Thỉnh chuyển pháp luân Bảy là: Thỉnh Phật trụ thế. Tám là: Thường tùy Phật học. Chín là: Hằng thuận chúng sanh. Mười là: Phổ giai hồi hướng. |
Video clip Sự Tích Phổ Hiền Bồ Tát:
NAM MÔ ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Cầu sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
Xin được Sám hối thiện trí thực đăng bài này, tuy nhiên trong bài đăng này thiện trí thức có sự nhầm lẫn về tiền kiếp của Đức Phổ Hiền Bồ Tát.
Theo kinh Bi hoa, trong tiền kiếp, thủa đức Phật Bảo Tạng Như Lai thành Phật. Thì Ngài làm con thứ 8 của Vua Vô Tránh Niệm, tên Ngài là Mẫn Đồ (người con thứ 4 của đức Vua Vô Tránh Niệm, Ngài Năng Đà Nô không phải là là tiền kiếp của đức Phổ Hiền, mà là tiền kiếp của Ngài Kim Cang Thủ Bồ Tát, trong đương lai Ngài Kim Cang Thủ Bồ Tát thành Phật có hiệU là Phổ Hiền Như Lai, có lẽ đọc chưa trọn kinh nên có sự nhầm như vậy).
Trích kinh Bi Hoa về sự tích của Bồ Tát Phổ Hiền:
…”“Thiện nam tử! Bấy giờ, Phạm-chí Bảo Hải lại khuyên bảo vị vương tử thứ tám là Mẫn-đồ phát tâm Bồ-đề, cho đến phát nguyện nhận lấy cõi Phật của mình.
“Vương tử Mẫn-đồ nghe lời khuyên ấy rồi, liền bạch trước Phật rằng: ‘Thế Tôn! Sở nguyện của con là ở ngay nơi thế giới bất tịnh này để tu hành đạo Bồ Tát, lại còn tu sửa trang nghiêm cho mười ngàn thế giới bất tịnh, khiến cho đều được trang nghiêm thanh tịnh giống như thế giới Thanh Hương Quang Minh Vô Cấu. Con cũng sẽ giáo hóa vô số các vị Bồ Tát khiến cho đều được tâm thanh tịnh, không có mọi sự cấu uế, thảy đều hướng theo Đại thừa. Những Bồ Tát như thế đầy khắp trong cõi thế giới của con, sau đó con mới thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thế Tôn! Nguyện khi con tu hành đạo Bồ Tát phải vượt trội hơn so với các vị Bồ Tát khác.
“Thế Tôn! Trong bảy năm qua con đã ngồi ngay ngắn tư duy về những công đức thanh tịnh của chư Phật, Bồ Tát, cùng với đủ mọi công đức trang nghiêm tốt đẹp của các cõi Phật. Khi ấy con liền được thấy đủ mọi sự trang nghiêm của các phép tam-muội, bằng với mười một ngàn môn tam-muội của hàng Bồ Tát tu hành tinh tấn.
“Thế Tôn! Con cũng nguyện cho các vị Bồ Tát trong tương lai khi tu hành đạo Bồ Tát thảy đều được các phép tam-muội như vậy.
“Thế Tôn! Nguyện cho con đạt được Tam-muội Xuất ly tam thế thắng tràng. Nhờ sức tam-muội nên thấy được khắp vô lượng vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương, tại mỗi thế giới ấy đều có chư Phật hiện tại, lìa khỏi ba đời vì chúng sinh mà thuyết giảng chánh pháp.
“Thế Tôn! Nguyện cho con đạt được Tam-muội Bất thối. Nhờ sức tam-muội nên chỉ trong thời gian một niệm có thể thấy hết các vị Phật và Bồ Tát số nhiều như những hạt bụi nhỏ, cùng với chúng Thanh văn cung kính vây quanh. Nguyện cho con ở chỗ mỗi một vị Phật ấy đều đạt được Tam-muội Vô y chỉ. Nhờ sức tam-muội nên có thể biến hóa thành những hóa thân, cùng lúc hiện đến chỗ các đức Như Lai nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật để cúng dường lễ bái. Nguyện cho mỗi một hóa thân ấy đều dùng đủ mọi thứ trân bảo quý giá nhất, cùng với các thứ hương hoa, hương phết, hương bột, những âm nhạc nhiệm mầu thù thắng, đủ mọi cách trang nghiêm tốt đẹp để dâng lên cúng dường hết thảy chư Phật.
“Thế Tôn! Nguyện cho mỗi một hóa thân của con ở chỗ của mỗi một vị Phật đều trải qua số kiếp nhiều như số giọt nước trong biển cả để tu hành đạo Bồ Tát.
“Nguyện cho con được Tam-muội Nhất thiết thân biến hóa. Nhờ sức của tam-muội nên chỉ trong thời gian một niệm có thể ở trước mỗi một đức Phật mà biết được hết thảy các thế giới của chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật.
“Thế Tôn! Nguyện cho con được phép tam-muội Công đức lực. Nhờ sức của tam-muội nên có thể ở nơi trước mỗi một đức Phật mà hiện đến chỗ của chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, dùng những lời ngợi khen xưng tán vi diệu để xưng tán chư Phật.
“Thế Tôn! Nguyện cho con được Tam-muội Bất huyễn. Nhờ sức của tam-muội nên chỉ trong thời gian một niệm có thể thấy hết được chư Phật đầy khắp trong vô lượng vô biên thế giới mười phương.
“Thế Tôn! Nguyện cho con được Tam-muội Vô tránh. Nhờ sức của tam-muội nên chỉ trong thời gian một niệm có thể thấy hết được những thế giới thanh tịnh nhiệm mầu của chư Phật trong hiện tại, quá khứ và vị lai.
“Thế Tôn! Nguyện cho con được Tam-muội Thủ lăng nghiêm. Nhờ sức của tam-muội nên có thể biến hóa thành thân của chúng sinh địa ngục, vào trong địa ngục thuyết giảng chánh pháp nhiệm mầu cho chúng sinh trong đó, khuyến khích và làm cho họ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Những chúng sinh ấy được nghe chánh pháp rồi liền nhanh chóng phát tâm Bồ-đề Vô thượng, liền đó mạng chung sinh lên cõi người, rồi tùy nơi sinh ra thường được gặp Phật. Tùy chỗ gặp Phật được nghe thuyết pháp; nghe nhận chánh pháp rồi liền trụ yên nơi địa vị không còn thối chuyển.
“Đối với tất cả các loài chúng sinh như càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, loài người, loài phi nhân… cho đến chư thiên, rồng, quỷ thần, dạ-xoa, la-sát, tỳ-xá-già, phú-đan-na, già-trá phú-đan-na, đồ-sát, khôi quái, thương giá, dâm nữ, súc sinh, ngạ quỷ… cũng đều như thế, đều khuyến khích giáo hóa, khiến cho phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại có những chúng sinh tùy chỗ sinh ra mà có những hình tướng khác nhau, con nguyện sẽ phân thân hóa thành giống họ, cùng làm những nghề nghiệp như họ, cùng nhận chịu những nỗi khổ, niềm vui như họ. Nguyện cho con biến hóa ra những thân như vậy để tùy theo việc làm mà giáo hóa những chúng sinh ấy.
“Thế Tôn! Nếu có những chúng sinh dùng các ngôn ngữ khác nhau, nguyện con sẽ có thể tùy theo từng loại ngôn ngữ ấy mà thuyết pháp cho họ nghe, khiến cho tất cả đều được hoan hỷ. Nhân nơi sự hoan hỷ ấy liền khuyến khích họ phát tâm, trụ yên trong chánh pháp, khiến cho đạt được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thế Tôn! Con nguyện sẽ giáo hóa cho tất cả chúng sinh trong mười ngàn cõi Phật, khiến cho được tâm thanh tịnh không còn hết thảy mọi nghiệp tạo tác và các độc phiền não, cho đến dù chỉ một người cũng không để cho bốn thứ ma não hại, huống chi là nhiều người?
“Nếu như con đã trang nghiêm tốt đẹp cho mười ngàn cõi Phật, khiến được thanh tịnh như thế giới Thanh Hương Quang Minh Vô Cấu của Phật Quang Minh Vô Cấu Tôn Hương Vương, được đủ mọi sự trang nghiêm vi diệu như thế giới ấy, rồi sau đó bản thân con và quyến thuộc sẽ phát những đại nguyện giống như vị Bồ Tát Sư Tử Hương kia.
“Bạch Thế Tôn! Nếu như sở nguyện của con sẽ thành tựu, được lợi ích bản thân, xin nguyện cho những chúng sinh trong mười ngàn cõi Phật đều được dứt hết mọi khổ não, được tâm nhu nhuyễn, được tâm điều phục, mỗi chúng sinh đều có thể tự ở nơi Bốn cõi thiên hạ của mình mà thấy được đức Phật Thế Tôn hiện đang thuyết pháp. Hết thảy chúng sinh lại tự nhiên có được đủ các loại trân bảo, hương hoa, hương bột cùng với hương phết, đủ mọi thứ y phục, cờ phướn… Mỗi chúng sinh đều dùng những thứ ấy để cúng dường đức Phật. Cúng dường Phật rồi, thảy đều phát tâm Bồ-đề Vô thượng.
“Bạch Thế Tôn! Nguyện cho con nay sẽ được sức Tam-muội Kiến chủng chủng trang nghiêm, từ xa nhìn thấy hết thảy những việc như thế.’
“Vương tử vưa nói xong liền đúng như sở nguyện được nhìn thấy tất cả.
“Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngợi vương tử Mẫn-đồ: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Thế giới của ông bao quanh bốn phía có mười ngàn cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, trong đời vị lai lại sẽ giáo hóa vô lượng chúng sinh, khiến cho được tâm thanh tịnh, lại sẽ cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn.
“Thiện nam tử! Do nhân duyên ấy, nay ta đổi tên cho ông là Phổ Hiền. Trong đời vị lai, trải qua số a-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát sông Hằng, trong khoảng sau cuối của số a-tăng-kỳ kiếp lần thứ hai cũng nhiều như số cát sông Hằng, về phương bắc của thế giới này, trải qua số cõi Phật nhiều như số cát của sáu mươi con sông Hằng, có thế giới tên là Tri Thủy Thiện Tịnh Công Đức, ông sẽ ở nơi thế giới ấy mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu là Trí Cang Hống Tự Tại Tướng Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.’
“Thiện nam tử! Khi ấy, Đại Bồ Tát Phổ Hiền liền cúi đầu sát đất lễ kính đức Phật Bảo Tạng.
“Bấy giờ, đức Như Lai Bảo Tạng vì Bồ Tát Phổ Hiền thuyết kệ rằng:
Đạo sư hãy đứng lên!
Ông đã được như nguyện,
Khéo điều phục chúng sinh,
Khiến cho được nhất tâm,
Vượt qua sông phiền não,
Thoát khỏi mọi điều ác.
Mai sau làm đuốc sáng,
Soi khắp cõi trời, người.
“Thiện nam tử! Bấy giờ, trong pháp hội có mười ngàn người sinh tâm nôn nóng không muốn đợi lâu, liền đồng thanh bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Chúng con vào đời vị lai nguyện cũng sẽ ở nơi cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh như vậy mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng nguyện tu tập trang nghiêm các cõi thế giới giống như Bồ Tát Phổ Hiền.
“Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện sẽ tu tập đầy đủ sáu pháp ba-la-mật. Nhờ đầy đủ sáu pháp ba-la-mật nên mỗi người chúng con đều sẽ được ở nơi các cõi Phật mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’
“Thiện nam tử! Khi ấy đức Như Lai Bảo Tạng liền vì mười ngàn người ấy mà thọ ký: ‘Các thiện nam tử! Khi Bồ Tát Phổ Hiền thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, các ông sẽ ở trong mười ngàn cõi Phật thanh tịnh mà Bồ Tát Phổ Hiền đã tu tập trang nghiêm, cùng lúc thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, trong đó có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Trí Sí Tôn Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Tăng Tướng Tôn Âm Vương.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Thiện Vô Cấu Tôn Âm Vương.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Ly Bố Uý Tôn Âm Vương.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Thiện Vô Cấu Quang Tôn Âm Vương.
“Lại có năm trăm người thành Phật cùng hiệu là Nhật Âm Vương.
“Lại có năm trăm người thành Phật cùng hiệu là Nhật Tạng Tôn Vương.
“Lại có năm người thành Phật cùng hiệu là Lạc Âm Tôn Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Nhật Quang Minh.
“Lại có bốn người thành Phật cùng hiệu là Long Tự Tại.
“Lại có tám người thành Phật cùng hiệu là Ly Khủng Bố Xứng Vương Quang Minh.
“Lại có mười người thành Phật cùng hiệu là Ly Âm Quang Minh.
“Lại có tám người thành Phật cùng hiệu là Âm Thanh Xưng.
“Lại có mười một người thành Phật cùng hiệu là Hiển Lộ Pháp Âm.
“Lại có chín người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Pháp Xứng Vương.
“Lại có hai mươi người thành Phật cùng hiệu là Bất Khả Tư Nghị Vương.
“Lại có bốn mươi người thành Phật cùng hiệu là Bảo Tràng Quang Minh Tôn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Giác Tri Tôn Tưởng Vương.
“Lại có bảy người thành Phật cùng hiệu là Bất Khả Tư Nghị Ý.
“Lại có ba người thành Phật cùng hiệu là Trí Tạng.
“Lại có mười lăm người thành Phật cùng hiệu là Trí Sơn Tràng.
“Lại có năm mươi người thành Phật cùng hiệu là Trí Hải Vương.
“Lại có ba mươi người thành Phật cùng hiệu là Đại Lực Tôn Âm Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Sơn Công Đức Kiếp.
“Lại có tám mươi người thành Phật cùng hiệu là Thanh Tịnh Trí Cần.
“Lại có chín mươi người thành Phật cùng hiệu là Tôn Tướng Chủng Vương.
“Lại có một trăm người thành Phật cùng hiệu là Thiện Trí Vô Cấu Lôi Âm Tôn Vương.
“Lại có tám mươi người thành Phật cùng hiệu là Thắng Tôn Đại Hải Công Đức Trí Sơn Lực Vương.
“Lại có bốn mươi người thành Phật cùng hiệu là Vô Thượng Bồ-đề Tôn Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Tri Giác Sơn Hoa Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Sơn Trí Giác.
“Lại có ba người thành Phật cùng hiệu là Kim Cang Sư Tử.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Trì Giới Quang Minh.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Thị Hiện Tăng Ích.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Lượng Quang Minh.
“Lại có ba người thành Phật cùng hiệu là Sư Tử Du Hý.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Vô Tận Trí Sơn.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Bảo Quang Minh.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Vô Cấu Trí Huệ.
“Lại có chín người thành Phật cùng hiệu là Trí Huệ Quang Minh.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Sư Tử Xứng.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Biến Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Vũ Pháp Hoa.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tạo Quang Minh.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tăng Ích Sơn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Xuất Pháp Vô Cấu Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Hương Tôn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Cấu Mục.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Đại Bảo Tạng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Lực Vô Chướng Ngại Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tự Tri Công Đức Lực.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Y Phục Tri Túc.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Đức Tự Tại.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Chướng Ngại Lợi Ích.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trí Huệ Tạng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Đại Sơn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Lực Tạng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Cầu Công Đức.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Hoa Tràng Chi.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Chúng Quang Minh.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Ngại Công Đức Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Kim Cang Thượng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Pháp Tướng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tôn Âm Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Kiên Trì Kim Cang.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trân Bảo Tự Tại Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Kiên Tự Nhiên Tràng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Sơn Kiếp.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vũ Ngu Lạc.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tăng Ích Thiện Pháp.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Sa-la Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Biến Mãn Đại Hải Công Đức Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trí Huệ Hòa Hợp.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trí Sí.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Hoa Chúng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Thế Gian Tôn.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Ưu-đàm-bát Hoa Tràng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Pháp Tràng Tự Tại Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Chiên-đàn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Thiện Trụ.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tinh Tấn Lực.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tràng Đẳng Quang Minh.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trí Bộ.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Hải Tràng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Diệt Pháp Xứng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Hoại Ma Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Chúng Quang Minh.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Xuất Trí Quang Minh.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Huệ Đăng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là An Ẩn Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Trí Âm.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Tràng Nhiếp Thủ.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Thiên Kim Cang.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Chủng Chủng Trang Nghiêm Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Thắng Trí.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Thiện Trụ Ý.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Nguyệt Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Vô Thắng Bộ Tự Tại Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Sa-lân-đà Vương.
“Lại có tám mươi người thành Phật cùng hiệu là Sư Tử Bộ Vương.
“Lại có năm mươi người thành Phật cùng hiệu là Na-la-diên Vô Thắng Tạng.
“Lại có bảy mươi người thành Phật cùng hiệu là Tụ Tập Trân Bảo Công Đức.
“Lại có ba mươi người thành Phật cùng hiệu là Quang Minh Tạng.
“Lại có hai mươi người thành Phật cùng hiệu là Phân Biệt Tinh Tú Xưng Vương.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Lực Sa-la Vương.
“Lại có chín mươi người thành Phật cùng hiệu là Vi Diệu Âm.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Phạm Tăng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Đề-đầu-lại-trá Vương.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Liên Hoa Hương Trạch Xưng Tôn Vương.
“Lại có sáu mươi người thành Phật cùng hiệu là Quang Minh Sí Đăng Vương.
“Lại có ba mươi người thành Phật cùng hiệu là Liên Hoa Hương Lực Tăng.
“Lại có hai người thành Phật cùng hiệu là Vô Lượng Công Đức Đại Hải Trí Tăng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Diêm-phù-âm.
“Lại có một trăm lẻ ba người thành Phật cùng hiệu là Công Đức Sơn Tràng.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Sư Tử Tướng.
“Lại có một trăm lẻ một người thành Phật cùng hiệu là Long Lôi Tôn Hoa Quang Minh Vương.
“Lại có một người thành Phật hiệu là Thiện Thú Chủng Vô Ngã Cam Lộ Công Đức Kiếp Vương.
“Lại có một ngàn người thành Phật cùng hiệu là Ly Pháp Trí Long Vương Giải Thoát Giác Thế Giới Hải Nhãn Sơn Vương.
“Tất cả đều có đủ mười hiệu là Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.
“Hết thảy các vị Phật này đều trong cùng một ngày, một giờ, mỗi vị ở nơi thế giới của mình mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thọ mạng của mỗi vị đều là mười trung kiếp, đều nhập Niết-bàn trong cùng một ngày. Sau khi nhập Niết-bàn rồi, sau bảy ngày chánh pháp sẽ diệt mất.
“Thiện nam tử! Khi ấy, mười ngàn người cùng hướng về đức Phật Bảo Tạng, cúi đầu làm lễ.
“Bấy giờ, đức Thế Tôn vì mười ngàn người ấy thuyết kệ rằng:
Long vương hãy đứng lên!
Được kiên cố tự tại,
Phát nguyện lành vô thượng,
Thanh tịnh và hòa hợp,
Dụng ý của các ông,
Gấp rút như gió mạnh,
Tinh tấn và chuyên cần,
Tu học pháp Lục độ,
Đời vị lai sẽ thành,
Tôn quý trong Ba cõi.
“Thiện nam tử! Khi ấy, mười ngàn người cùng nghe kệ rồi sinh tâm hoan hỷ, liền đứng lên trước Phật chắp tay cung kính, lễ bái dưới chân Phật rồi lui ra gần đó, ngồi yên lặng lắng nghe thuyết pháp”.