Đôi điều về Thư pháp Trung Hoa và nghệ thuật viết chữ của người phương Đông

1. THƯ PHÁP TRUNG HOA – KHỞI NGUỒN NGHỆ THUẬT VIẾT CHỮ PHƯƠNG ĐÔNG

Chữ Hán là một trong những ngôn ngữ xuất hiện sớm nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở phương Đông. Hán ngữ có nguồn gốc từ hệ thống ngôn ngữ Hán – Tạng, có hình thể được cấu tạo theo kiểu khối vuông với 6 nét bút cơ bản mà lập thành một hệ thống chữ viết có khả năng biểu đạt tương đối lớn từ các sự vật cụ thể đến những phạm trù trừu tượng. Khởi nguyên của chữ Hán là lối viết tượng hình, thấy gì viết nấy theo tư duy của người cổ đại mà dần dần đạt đến sự hoàn thiện theo lối lục thư nhưng vẫn giữ cách viết tượng hình làm gốc.

Trong lịch sử phát tích và hình thành đất nước, người Trung Hoa luôn có ý thức mở rộng lãnh thổ của mình, đặc biệt là các nước lân cận nhằm bành trướng thế lực, truyền bá văn hóa, phong tục đến các nước ngoại bang. Chính vì thế, theo bước chân của những đoàn quân di dân, những đoàn quân xâm lược, văn hóa Hán từng bước xâm nhập vào các nước tạo nên một dòng chảy văn hóa rộng lớn, trải dài gần như khắp phía Đông địa cầu. Cùng với dòng chảy đó, chữ Hán với lối viết nguyên thể khối vuông xâm nhập và định cư trong hệ thống ngôn ngữ của các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Chính sự xâm nhập và đóng đô quá chắc chắn nên Hán tự đã chiếm một địa vị gần như độc tôn trong ngôn ngữ các nước, góp phần tạo nên khu vực “Hán ngữ đồng văn” về cả văn hóa lẫn chữ viết.

Chữ Hán được viết theo kiểu khối vuông với các chữ tách rời nhau, mỗi chữ thể hiện một ý niệm khác nhau. Ban đầu, chữ Hán cũng giống như các ngôn ngữ khác chỉ dùng làm phương tiện để trao đổi thông tin nhưng theo thời gian càng ngày càng hoàn thiện trong cách viết, người Trung Quốc đã sáng tạo ra lối viết thư pháp độc đáo dựa trên đặc thù của chữ khối vuông. Thư pháp thể hiện một cách triệt để cái đẹp của chữ Hán, nâng tầm nó lên thành nghệ thuật mà ngày xưa và cho đến tận hôm nay, lối chơi chữ thư pháp trở thành một thú chơi cao cấp, tao nhã. Nghệ thuật chữ viết không chỉ mang giá trị thẩm mỹ lại còn mang nhiều giá trị thực tiễn trong đời sống con người.

Thư pháp 書法 nếu hiểu một cách nôm na theo cách chiết tự thì: “Thư” 書 là viết, ghi chép lại; “Pháp” 法 là hình pháp, mẫu mực, cách thức, phép tắc (Theo Từ điển Hán – Việt của Nguyễn Tôn Nhan, NXB Tổng Hợp TpHCM, 2008). Từ đó, ta thấy “Thư pháp” là mẫu mực của chữ viết hay hiểu cách khác là nó đã được nâng tầm lên thành một môn nghệ thuật riêng biệt. Không chỉ có ở Trung Quốc hay ở phương Đông mới có môn nghệ thuật con chữ này mà ngay cả phương Tây, thư pháp (Calligraphy – Calligraphie – Calligraphia) hay còn gọi là nghệ thuật viết chữ cũng khá thịnh hành, nó cũng tồn tại trong chữ viết người Ả Rập. Thư pháp phương Đông hướng đến sự phóng khoáng trong cách viết nhưng vẫn trong khuôn khổ nhất định thì nghệ thuật chữ viết phương Tây lại được cắt gọt sắc cạnh, tỉ mỉ, phổ biến khi nghề in chưa phát triển, dùng để chép các văn kiện quan trọng như Kinh Thánh thành các tác phầm mỹ thuật. Còn ở các quốc gia theo đạo Hồi, thư pháp lại là một môn nghệ thuật thị giác quan trọng, một môn khoa học ưu việt.

Nói một chút như vậy để thấy từ lâu trên thế giới đã coi trọng cái đẹp của chữ viết. Quay lại với nghệ thuật thư pháp Trung Hoa, người Trung Hoa đã nâng tầm nó thành môn nghệ thuật có tính tổng hợp cao, thanh khiết và là linh hồn của nghệ thuật mỹ thuật. Người Trung Hoa quan niệm rằng, mỗi chữ được viết ra không chỉ thể hiện tài hoa và sự khéo léo của người viết mà còn ẩn chứa những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ hoặc cảm xúc nhất thời của người viết chữ. Mỗi nét chữ lại mang phong cách riêng của từng thư pháp gia, không ai giống ai, mang cốt cách từng người. Xuất phát từ tâm thức nông nghiệp phương Đông ưa thích sự kín đáo, khai thác nhiều chiều sâu nội tâm, thư pháp chữ Hán đòi hỏi người viết phải khổ luyện và người thưởng thức cũng phải hết sức tinh tế để thấy chiều sâu nội tâm người viết trong mỗi con chữ.

Thư pháp Trung Hoa được hình thành từ rất sớm và được xem là một loại hình nghệ thuật rất cao. Hán tự có 5 thể chính là: Triện thư 篆書, Lệ thư 隸書, Khải thư 楷書, Hành thư 行書 và Thảo thư 草書. Đó cũng chính là những thủ pháp chính của cách viết thư pháp. Người ta cho rằng: Thư pháp ra đời vào khoảng thế kỷ II-IV, được xem là thú chơi cao nhã của những người có học.

Nghệ thuật thư pháp giúp người ta rèn luyện óc thẩm mỹ cũng như nâng cao tính kiên nhẫn của mỗi người theo học. Đối với người Trung Quốc, thư pháp không phải ai cũng học tập và lĩnh hội được hết cái hay của nó mà phải trải qua khổ luyện, tu tâm dưỡng tính, nuôi dưỡng tình cảm. Người Trung Quốc có câu: “Thư pháp khả dĩ tu tâm dưỡng tính, đào dã tâm tình” 書法可以修心養性陶冶心情 (Thư pháp có thể khiến người ta tu tâm dưỡng tính, rèn luyện tình cảm). Người chơi và viết thư pháp cũng lắm công phu: Phải biết cách đặt thân đúng, đặt bút đúng theo các quy tắc riêng, mắt nhìn thẳng, dụng bút phải chuẩn, thời gian luyện tập dài, không được nóng vội.

Thư pháp gắn với “Văn phòng tứ bảo” gồm có: Chỉ 紙 (giấy), Mặc 墨 (mực), Nghiễn 硯 (nghiên), Bút 筆 (bút), mỗi thứ phải tuân theo quy cách, phải đúng loại thì chữ mới đẹp được. Giấy phải là loại giấy “xuyến chỉ” đắt tiền, mực thì dùng loại mực thỏi hoặc mực trấp pha theo tỉ lệ và phải điều tiết khi viết, nghiên mực phải có độ nghiêng nhỏ để tránh bị đọng mực. Bút lại càng phức tạp hơn, bút chuyên dụng để viết thư pháp gồm các loại tiểu, trung, đại, phải có mao quản 毛管 (ngòi bằng lông để có thể thấm mực dễ dàng), phải có đủ các bộ phận: Đào tuyến 陶線 (sợi dây để treo bút), bút quản 筆管 (quản bút bằng trúc), bút hào 筆毫 (búp lông giống búp sen), bút căn 筆根 (phần lông gắn với quản bút). Vậy mới thấy, thú chơi thư pháp công phu và tỉ mỉ như thế nào.

Thư pháp của người Trung Hoa được xem như một loại hình nghệ thuật, thậm chí là một môn học với đầy đủ cơ sở lý luận mà người ta gọi là “Thư học” 書學. Thư pháp đòi hỏi có sự khổ luyện cao, người viết nếu thiếu kiên nhẫn sẽ khó học thành, như câu nói: “Học thư vô nhật bất lâm trì” 學書無日不臨池 (Học thư pháp không có ngày nào mà không vào ao). Thuật ngữ “lâm trì” 臨池 chỉ sự khổ luyện thư pháp xuất phát từ giai thoại của thư pháp gia Trương Chi 張芝 mỗi ngày luyện tập viết chữ xong lại rửa bút ở ao khiến nước đen như mực (Lâm trì học thư, trì thủy tận mặc 臨池學書池水盡墨). Về sau này, “lâm trì” được dùng để chỉ sự luyện tập thư pháp.

Ngược dòng lịch sử Trung Hoa, thời đại nào cũng có những nhà thư pháp lẫy lừng với phong cách rất riêng. Thời Hán với Trương Chi say mê thư pháp, không có giấy phải viết lên vải lụa cho đến khi không còn chỗ viết thì đem nhuộm để cắt may thành quần áo mặc. Sau này, thư pháp gia nổi tiếng Vương Hi Chi 王羲之 (nhà Tấn) noi gương Trương Chi mà bỏ đến 15 năm rèn luyện chữ nghĩa để trở thành “Thư thánh” (một trong Thập Thánh được dân gian Trung Quốc ca ngợi và truyền tụng). Thế mới thấy, nghệ thuật con chữ có sức hút thật mãnh liệt với người đời xưa.

Nghệ thuật viết chữ đẹp của người phương Bắc phải kể đến Vương Hi Chi và dòng dõi nhà ông. Vương Hi Chi ngày trước bắt đầu luyện chữ thư pháp bằng cách viết chữ “Vĩnh” 永 (chữ hội tụ đầy đủ tám nét cơ bản trong cách viết chữ Hán), tạo nên “Vĩnh tự bát pháp” 永字八法 – bài học cơ bản cho người tập viết thư pháp. Không chỉ có Vương Hi Chi mà con cháu ông cũng say mê nghiên cứu thư pháp. Con trai ông Vương Hiến Chi 王獻之 cũng yêu thích viết chữ không kém gì cha nên ngay từ thuở nhỏ đã gánh nước đổ đầy 18 chum nước để mài mực. Hai cha con Vương Hi Chi và Vương Hiến Chi nổi tiếng với lối viết chữ Thảo, được người đời xưng tụng là “Thảo Thánh Nhị Vương” 草聖二王 (Hai vị vua của lối viết chữ thảo), chữ thảo của hai ông mềm mại, uyển chuyển, trở thành khuôn mẫu của cách viết chữ thảo cho hậu thế luyện theo. Dòng dõi nhà Vương Hi Chi còn phải kể đến nhà sư Thích Trí Vĩnh 釋智永 (Vĩnh Thiền Sư), tương truyền là cháu bảy đời của Vương Hi Chi, sống đời nhà Tấn, là người khổ luyện thư pháp nhiều đến nỗi thoái bút 退筆 (bút bị cùn do viết chữ) chất cao thành gò. Vĩnh Thiền Sư tu luyện ở chùa Vĩnh Hân 永欣, yêu thích thư pháp đến nỗi 40 năm luyện chữ trên lầu chùa mà không xuống đất (Đăng lâu bất hạ tứ thập niên 登樓不下四十年), Thiền Sư cũng là người kế tục và nghiên cứu, phát triển “Vĩnh tự bát pháp” (Tám nét tạo thành chữ “Vĩnh”) đã được khởi xướng từ thời ông tổ bảy đời Vương Hi Chi. Giai thoại về Vĩnh Thiền Sư kể lại rằng: Khi nhà sư đã luyện chữ đạt đến mức độ điêu luyện, người người biết đến ông, ham thích và mong muốn sở hữu chữ ông đã chen lấn nhau xin chữ dẫm nát ngạch cửa đến nỗi phải lấy sắt bao lại, gọi là “Thiết môn hạn” 鐵門限. Nhà Đường có nhà sư Hoài Tố 懷素 nhà nghèo không có tiền mua giấy, phải tập viết trên lá chuối mà được xưng tụng là “Thảo thánh”. Dần dần, người yêu thích thư pháp không chỉ là bậc vua chúa, kẻ sĩ mà còn có cả thứ dân cũng rất thích mà ngày nay còn lưu truyền nhiều câu chuyện thú vị: Đường Thái Tông 唐太宗 rảnh rỗi lại luyện “Trừu không luyện tự” 抽空練字 (lấy ngón tay mà viết chữ vào không khí), nửa đêm đốt đuốc luyện Lan Đình tự 蘭亭字 (chữ của Vương Hi Chi trong “Lan Đình tập tự” 蘭亭習字) thật đáng khâm phục. Lương Vũ Đế 梁武帝 vì quá ham thích nét chữ Thư Thánh đã truyền lệnh thu thập bút tích và ra lệnh trong cung phải lấy chữ viết của Vương Hi Chi làm chuẩn, nhà vua còn sai Chu Hưng Tự 周興嗣 soạn “Thiên tự văn” 千字文 bằng bốn cách viết thư pháp của Vương Hi Chi, dùng nó làm phương tiện dạy chữ Hán và viết thư pháp trong cung còn lưu truyền tới ngày nay.

Thư pháp đồng hành với sự phát triển và ổn định của chữ Hán, có lịch sử trải dài và thời đại nào cũng có những thư gia tiêu biểu với dấu ấn cá nhân không pha trộn. Đời nhà Tần không thể không kể đến “đệ nhất thư pháp gia” – Tể tướng Lý Tư 李斯, Triệu Cao 趙高 hay Mẫu Kính 母敬. Nhà Hán cũng góp mặt những thư gia như Sử Du 史游, Trương Chi 張芝, Tào Hỷ 曹喜, Sái Ung 蔡邕, Lương Hộc 梁鵠, Lưu Đức Thăng 劉德升… Đời Tam Quốc và Tây Tấn có Hàm Đan Thuần 邯鄲淳, Vỹ Đản 偉誕, cha con Vệ Ký 衛覬-Vệ Cẩn 衛瑾, Lục Cơ… Đời Đông Tấn có gia đình Vương Hi Chi 王羲之 – Vương Hiến Chi 王獻之 – Vương Tuần 王珣 – Vương Dân 王民. Thư pháp đời Nam Bắc triều có Bạc Thiệu Chi 薄紹之, Vương Tăng Kiều 王僧虔, Đào Hoằng Cảnh 陶弘景, Vương Bao 王褒… Xuôi đến thời thịnh vượng nhất của thư pháp chữ Hán là đời Tùy – Đường cũng sản sinh nhiều cái tên như: Trí Vĩnh 智永, Đinh Đạo Hộ 丁道護, Âu Dương Tuân 歐陽詢, Ngu Thế Nam 虞世南, Lục Giản Chi 陸柬之, Vũ Tắc Thiên 武則天, Lý Ung 李邕, Trương Húc 張旭, Hàn Trạch Mộc 韓擇木, Hạ Tri Chương 賀知章, Nhan Chân Khanh 顏真卿, Liễu Công Quyền 柳公權, Đỗ Mục 杜牧, Cao Nhàn 高閑… Đời Ngũ Đại với Dương Ngưng Thúc 楊凝式, Từ Huyễn 徐鉉… Đời Tống có Lý Kiến Trung 李建中, Vương An Thạch 王安, Tô-Hoàng-Mễ-Sái (Tô Thức 蘇軾, Hoàng Đình Kiên 黄庭堅, Mễ Phế 米芾, Sái Tương 蔡襄), Nhạc Phi 岳飛, Lục Du 陸游, Vương Đình Quân 王庭筠… Đời nhà Nguyên có Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫, Tiêu Vu Khu 鮮于樞, Nghê Tán 倪瓚… Đời Minh – Thanh với những cái tên tiêu biểu như: Cha con Tống Liêm 宋濂 – Tống Thoại 宋璲, Trần Hiến Chương 陳獻章, Thẩm Chu 沈周, Hình Đồng 邢侗, Trương Thụy Đồ 張瑞圖, Phó Sơn 傅山, Vương Đạc 王鐸, Kim Nông 金農, Bao Thế Thần 包世臣, Hà Thiệu Cơ 何紹基, Trần Diệc Hi 陳亦禧, Tề Bạch Thạch 齊白石, Trịnh Bản Kiều 鄭板橋… Ngay cả đến thời hiện đại, số lượng thư gia cũng hết sức nhiều, có thể kể đến vài cái tên như: Trịnh Văn Trác 鄭文焯, Tăng Hi 曾熙, Hoàng Tân Hồng 黄賓虹, Hồ Tiểu Thạch 胡小石, Lỗ Tấn 魯迅, Quách Mạt Nhược 郭末若, Vu Hữu Nhiệm 于右任, Mã Nhất Phù 馬一浮…

Trên đây chỉ là vài cái tên tiêu biểu nhất của nghệ thuật thư pháp chữ Hán qua các triều đại. Kỳ thực, số lượng các nhà thư pháp Trung Hoa còn rất nhiều và ngày càng có nhiều người tiếp nối bộ môn nghệ thuật này. Điểm qua một số cái tên như vậy cũng đủ để thấy sức hấp dẫn lòng ham thích nghiên cứu, luyện tập của người Trung Quốc lớn thế nào.

Thư pháp tinh tế không chỉ ở chỗ phải trải qua khổ luyện mới có nét chữ đẹp, có hồn, mà nghệ thuật “cho chữ” cũng là một nét văn hóa. Chữ được viết ra là kết tinh của những năm tháng khổ luyện không ngừng của người viết, nó còn thể hiện cảm xúc, tình cảm và suy nghĩ của người tạo chữ. Chính vì thế, việc cho chữ cho ai cũng là điều mà các thư gia hết sức coi trọng, không phải ai cũng được tặng chữ. Văn hóa Trung Quốc nặng lễ nghĩa, coi trọng sách vở, chữ nghĩa, người có học luôn được trọng vọng, làm quan cũng lấy chữ nghĩa làm đầu, lời nói của người nhiều chữ rất có trọng lượng… tâm lý ấy không chỉ tồn tại trong xã hội mà ngay trong cả phạm vi gia đình truyền thống người Hoa, kẻ thất học không bao giờ được xem trọng, khó có thể thay đổi địa vị của mình. Mặt khác, viết thư pháp lại được xem là nghệ thuật của chữ nghĩa, do đó người viết cũng không thể tặng chữ mình cho đối tượng mình không xem trọng. Rất khó để có thể ép một thư gia viết chữ khi tâm họ không mong muốn, vì khi đó nét chữ sẽ không đẹp vì tấm lòng không thỏa mãn. Truyền thống từ ngày xưa để lại, các nhà thư pháp chỉ tặng chữ chứ không đem ra bán như bây giờ, họ cũng chỉ tặng anh em, bạn bè thân hữu mà họ quý mến, tuyệt đối không cho chữ tùy tiện. Người được tặng chữ phải là người có học, biết quý trọng và nâng niu chữ mình được tặng. Người Trung Quốc thường treo chữ thư pháp ở giữa gian phòng khách, hay bên cột nhà chính, hay trước cửa, cổng nhà, đình, thể hiện sự trang trọng, đề cao chữ được tặng, xem chữ là một vật quý giá trong nhà, ở những vị trí đặc biệt quan trọng trong không gian sống.

2. THƯ PHÁP – THÚ CHƠI CŨNG LẮM CÔNG PHU

Nếu coi thư pháp như là một thú chơi tao nhã thì quả thật nghề chơi này cũng lắm công phu. Trước tiên, người muốn học thư pháp phải có sự ham thích và năng khiếu cộng thêm vốn chữ nghĩa tương đối rộng. Thư pháp không thể nóng vội, không qua rèn luyện mà có thể thuần thục được ngay, để có thể viết được chữ đẹp, người học có khi phải mất gần nửa đời người luyện tập mới sở hữu được nét bút mang thần thái riêng không trộn lẫn.

Chữ viết thư pháp nhìn có vẻ phóng khoáng, nhẹ nhàng nhưng thực chất muốn tạo hình được nó phải tuân theo một nguyên tắc cực kỳ nghiêm ngặt. Khi viết phải xác định được bố cục để có tỷ lệ chữ chính xác, tránh được tình trạng thiếu giấy hay thừa giấy. Khi đặt bút xuống để tạo chữ, người viết phải tuân theo các quy tắc viết đã được các thư gia đúc kết lại như: Ngũ chỉ pháp (cách cầm bút), Oản pháp (cách điều khiển cổ tay), nhãn pháp (điều khiển mắt), thân pháp (cách đặt thế khi viết). Đặc biệt, khi họa một bức thư pháp, người viết phải tuân theo lối viết “bạch văn” (cách viết liền một mạch, không có các dấu ngắt câu), không sử dụng “cú đậu” (các dấu tròn hay phẩy được cổ nhân sử dụng để ngắt câu khi viết) để tránh làm mất thẩm mỹ của một tác phẩm nhiều chữ.

Thư pháp đề cao cái “thần” của con chữ, chữ của mỗi thư gia khác nhau quý cốt ở cái “thần” riêng biệt, độc đáo. Người viết thư pháp thường cố gắng tạo ra cái “thần” riêng cho chữ viết của mình tuy nhiên đó lại là điều cực kỳ khó vì nó là kết tinh của cá tính, tu dưỡng thi văn, tư tưởng, kỹ pháp và khí lực của thư gia. Theo Tôn Quá Đình, bút pháp của một thư gia lão luyện có thể tạo ra khí lực trong thiên nhiên, chẳng hạn, bút khí của thư gia như thể “phi điểu xuất lâm, kinh xà nhập thảo” (chim bay khỏi rừng, rắn sợ hãi chui vào cỏ) hay “phi hồng ký hải, vũ hạc du thiên” (hồng nhạn bay đùa trên biển, chim hạc bay múa trên trời). Thư gia lỗi lạc là người đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật viết, không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc của mình trong từng nét bút, ví như viết chữ mà nhìn ra gió, ra chim thì đó là bậc kỳ tài, biết mềm, biết rắn, nhẹ nhàng như “thiền dực” (cánh ve) nhưng cũng có khi vững chắc như “trụy thạch” (đá rơi). Ngọn bút khi lướt trên giấy nhẹ như gió thoảng mà dừng lại thì nặng như Thái sơn.

Để tạo được cái thần của thư pháp, việc dùng bút cũng rất quan trọng, nó thể hiện tài năng và sự tinh tế của người viết chữ. Trách Lãng trong cuốn “Họa sự vi ngôn” có nói rằng: “Câu lặc dụng ngạnh bút, trứ sắc dụng huyễn bút, công tế dụng tân bút, tả ý dụng thoái bút, giới họa dụng ngạnh bút, họa nhiễm dụng huyễn bút, câu cân dụng ngạnh tiêm bút, điểm đài dụng ngạnh thoái bút, bát mặc dụng đại huyễn bút, đạm sắc dụng huyễn thoái bút” (Bút lông cứng dùng để vẽ đường nét, bút lông mềm dùng để tô màu, bút mới để vẽ nhưng nét công phu, tỉ mỉ, bút cũ để mô tả theo lối tượng trưng tả ý, bút lông cứng để vẽ chi tiết, bút lông mềm để quét màu, bút lông cứng đầu nhọn dùng để vẽ gân lá, bút cũ lông cứng dùng để chấm những điểm rêu, bút lớn lông mềm để quét mực loãng, bút cũ lông mềm dùng để quét những mảng màu nhạt mỏng).

Người nghệ sĩ phải cẩm nhận từ trong tâm, khi đó thì phóng bút sẽ rất nhanh và liền mạch, nhất khí, không đứt đoạn, nét bút viết ra sẽ tự khắc có thần khí khiến người thưởng thức có thể cảm nhận được. Tích xưa truyền lại, khi chiêm ngưỡng tác phẩm của Nhược Quỳ, Tô Đông Pha đã từng thốt lên tán thưởng: “Chữ viết tiêu sơ như mưa bay, phát tán một cách tự nhiên mà không cẩu thả”. Đó là sự giao cảm, đồng điệu một cách hết sức tự nhiên giữa người sáng tác và người thưởng thức nghệ thuật thông qua tác phẩm là cầu nối giao cảm, cái thần đã được thư gia gửi gắm và người xem đã nắm bắt được.

Thưởng thức một tác phẩm thư pháp, người ta chủ yếu thưởng ngoạn thần thái nét bút chứ ít chú trọng đến nội dung tác phẩm. Vì thế, cho dù có viết cùng một chữ, một câu văn, một đề tài nhưng chính sự khác nhau trong cách dụng bút mà tạo ra những thần sắc riêng biệt, thu hút người xem. Cách thưởng thức này sẽ dẫn đến sự biệt lập về nội dung và hình thức của chữ, giữ gìn và đề cao lên trên hết là tính nghệ thuật của mỗi tác phẩm, tôn vinh vẻ đẹp con chữ thế nhưng nó lại gây ít nhiều khó khăn và giảm phần thích thú đối với những người am tường cũng như có mối quan tâm về nội dung, ý nghĩa văn bản chữ Hán của tác phẩm.

Những thư pháp gia của Trung Quốc từ xưa đến nay đều có thể tìm thấy trong nét bút của họ cái “thần” rất đặc biệt. Khải thư của Liễu Công Quyền và Nhan Chân Khanh được người đời tán tụng bởi khí chất được thể hiện trong chữ viết “Nhan cân Liễu cốt” (Nhan thể có gân, Liễu thể có xương), không chỉ tạo được thần thái cho chữ viết của mình, Liễu thể và Nhan thể còn là chuẩn mực về chữ khải cho người luyện chữ. Trong các cách viết còn có lối viết “cuồng thảo” khá đặc sắc với hai gương mặt là Hoài Tố và Trương Húc đời nhà Đường. “Cuồng thảo” là cách viết thể hiện rõ nhất thần thái của người viết thông qua tác phẩm của mình, đó là khi người viết hội tụ nhiều nhất sinh khí và cảm hứng đã đạt đến độ cao nhất ắt sẽ sinh cái cuồng, khi đó chữ viết tuôn ra trôi chảy, liền mạch, không gián đoạn, viết một mạch, không dừng bút. Vì thế mà chữ viết khi được viết ra gây được ấn tượng mạnh, nhanh chóng tạo được cảm xúc cho người xem.

Trường phái chữ cuồng không thể không nhắc đến “cuồng thảo nhị tuyệt” (hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo) là Trương Húc và Hoài Tố được người đời truyền miệng qua câu nói “Điên Trương túy Tố” (Trương Húc điên, Hoài Tố say) đều xuất phát từ con người và thói quen thư pháp của họ. Giai thoại kể lại rằng: Trương Húc là thư pháp gia thích uống rượu, khi đã say thì gào thét, phóng bút điên cuồng trên giấy không gì có thể ngăn lại được hoặc giả khi đã cuồng thì nhúng đầu tóc vào nghiên mực. Cái thần của “cuồng thảo” được Trương Húc nắm bắt và lĩnh hội thông qua những màn múa kiếm mà ông được xem. Chữ của ông đẹp và sắc đến nỗi vua Đường Văn Tông đã sắc chiếu phong rằng đời nhà Đường có ba thứ được xem là “Tam tuyệt” là thi ca của Lý Bạch, tài múa kiếm của Bùi Mân và cuồng thảo của Trương Húc. Về phần nhà sư – nhà thư pháp Hoài Tố, tài năng chữ cuồng thảo của ông cũng không hề thua kém Trương Húc. Hoài Tố vốn là nhà sư xuất gia từ nhỏ, nhà nghèo không đủ tiền mua giấy nên đành viết thư pháp trên lá chuối. Nếu như Trương Húc nhận thấy cái thần của thư pháp từ việc xem múa kiếm thì nhà sư Hoài Tố lại lĩnh hội cái “thần” ấy từ việc quan sát những vết rạn nứt trên tường hay những tia chớp. Mặc dù xuất thân là một nhà sư nhưng ông lại rất thích uống rượu, rượu vào thì múa bút viết chữ thảo liên miên, kỳ dị, tuy có vẻ cuồng loạn nhưng lại mang một quy cách riêng khó ai có thể bắt chước theo được.

Để tạo được chữ đẹp, có hồn thì trước hết phải dùng cảm xúc của bản thân mình vận vào từng nét bút, chỉ có như thế thì thư gia mới có thể thổi vào tác phẩm của mình linh hồn, chữ viết do đó mà có thần sắc, không khô cứng, vô hồn.

Nghệ thuật thư pháp vốn dĩ hay và đẹp, dễ làm rung cảm lòng người. Thư pháp không chỉ đơn thuần là trò chơi với chữ nghĩa mà còn là một bộ môn khoa học giúp con người vừa rèn cho mình khả năng viết chữ đẹp lại vừa giúp tu tâm, dưỡng tính, lánh xa những suy nghĩ phàm tục mà chuyên chú thưởng thức và nâng niu cái đẹp thanh khiết. Ngắm nhìn một bức thư pháp đẹp, câu chữ câu đối có thần khiến tâm hồn con người trở nên thanh tịnh, nhẹ nhàng.

Học thư pháp phải tuân theo những bước nhất định và lâu dài, từ những bước cơ bản cho đến thành thục. Từ xưa đến nay, người tìm đến với thư pháp đều phải bắt đầu bằng cách tập viết loại chữ khải và phải là trung khải, sau khi đã thành thạo mới nên luyện viết sang tiểu khải và chữ thảo vì nếu luyện ngay chữ thảo thì nét chữ sẽ trở nên yếu đuối, không có gân cốt, nhìn không được đẹp mắt và không có linh hồn.

Người muốn học viết chữ thư pháp không thể thiếu thầy dạy đế nắm bắt được bút pháp của thầy, tiếp thu những kỹ thuật trực quan mà sách vở đọc sẽ không thể nắm bắt được hết. Học trò từ đó sẽ chịu nhiều ảnh hưởng từ bút pháp người thầy, thầy dạy quen với kiểu chữ nào thì trò học thường sẽ viết tốt kiểu chữ đó. Người thầy thường đóng vai trò “phá mê” cho học trò của mình, chỉ ra những nét còn chưa đẹp, chưa có thần khí, nét có chứa “tự bệnh” và “giải hoặc” cho học trò, tức là giảng giải những điều còn chưa thông suốt. Từ sự hướng dẫn của thầy dạy, người luyện thư pháp dần dần sẽ cải thiện được kỹ thuật của mình, tránh mắc phải những tật viết chữ dễ mắc phải nhưng lại khó sửa chữa, xác định cách viết đúng để từ đó mà việc luyện tập thư pháp ngày càng có hứng thú và mau chóng tiến bộ hơn.

Về mặt hình thức, người Trung Hoa chơi thư pháp phổ biến dưới dạng câu đối, liễn được viết trên giấy đỏ tượng trưng cho sự may mắn, phát tài. Nội dung câu đối thường là hai câu chữ Hán đối nhau về ý, về vần, có nội dung chúc phúc, chúc thọ, chúc sức khỏe, phát tài, thịnh vượng, sung túc. Câu đối thư pháp thường được treo ở những vị trí đẹp, trang trọng nhất của ngôi nhà như cổng, cửa chính, chính giữa phòng khách, cột nhà, bàn thờ gia tiên. Câu đối cũng được phân chia thành nhiều loại: Xuân liên (câu đối xuân), môn liên (câu đối dán ở cửa), doanh liên (câu đối dán ở cột).

Về sau này, khi nghệ thuật viết thư pháp đã trở nên hoàn thiện và là một môn nghệ thuật không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, xã hội thì các thư gia đã nâng tầm nó thành sự kết hợp bằng bức tranh và chữ viết, trở thành linh hồn của nghệ thuật hội họa của đất nước này. Tranh vẽ cùng với chữ tạo nên vẻ đẹp hài hòa, sinh động, hình vẽ cũng dùng bút lông để vẽ với những kỹ pháp khác nhau đã góp phần hiệu quả cho việc tăng tính trực quan, sinh động cho tổng thể tác phẩm. Người xem không chỉ thỏa mãn khi nhìn ngắm vẻ đẹp con chữ mà còn được thưởng thức những bức họa được vẽ bằng những nét chấm của bút lông nhưng lại cực kỳ tinh tế và sang trọng, giúp chuyển tải ý nghĩa của chữ viết một cách trực quan. Người vẽ tranh thư pháp có thể vẽ theo nhiều đề tài khác nhau, dụng bút khác nhau nhưng nhìn chung loại tranh này thường diễn tả 3 chủ ý của người sáng tác:

Một là, gửi gắm ý chí, quan niệm của mình về thế sự, về cuộc sống và về con người.

Hai là, biểu đạt ước nguyện về mọi sự tốt lành, cát tường cho bản thân mình.

Ba là, cầu phúc điều tốt lành, hạnh phúc cho người khác, thường được dùng để tặng nhau trong những dịp lễ, tết hay những dịp mừng thọ trong gia đình.

Một bức tranh thư pháp không thể thiếu ấn chương, là con dấu màu đỏ, có khắc tên người viết được đóng ở góc bức tranh, thể hiện dấu ấn riêng của tác giả.

Để tạo nên một bức thư pháp hoàn chỉnh đòi hỏi người viết phải trải qua một quá trình khổ luyện dài để tập viết, hơn nữa là tập vẽ sao cho đẹp, cho khéo và nắm bắt được hầu hết các kỹ thuật viết nhằm tạo nên một tác phẩm đẹp nhất. Một tác phẩm chỉ gói gọn trong một trang giấy thế nhưng ẩn chứa đằng sau nó là kết tinh rất nhiều ý chí cũng như sức lực của người sáng tác. Chính vì thế, nó được người đời rất trân trọng, nâng niu và gìn giữ.

Thú chơi thư pháp không chỉ dừng lại ở một thú vui mà nó còn là “đặc sản tinh thần” vô giá của người Trung Hoa sáng tạo nên, được xem là quốc túy của dân tộc và lan tỏa đến nhiều đất nước khác trong khu vực.

MAN ĐỨC HUY
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.