KINH TĂNG NHẤT A-HÀM
Ekttarikàgama / Anguttara-Nikàya
增 壹 阿 含 經
HÁN DỊCH:
TAM TẠNG CÙ-ĐÀM TĂNG-GIÀ-ĐỀ-BÀ (Saṅghadeva)
三 藏 瞿 曇 僧 伽 提 婆
VIỆT DỊCH:
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH TỪ
HIỆU ĐÍNH:
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN SIÊU
———=oOo=———
TVGĐPT – Kinh TĂNG NHẤT A-HÀM, tiếng Phạn là Ekttarikàgama, tiếng Pàli là Anguttara-Nikàya, do Ngài Cù-đàm-tăng-già Đề-bà dịch vào đời Đông Tấn (317-419), Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 2.
Theo Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa 1, Ngũ Phần Luật 30, Tứ Phần Luật 54, sở dĩ nói “Tăng Nhất” là vì bộ kinh này phân loại và tập đại thành thứ tự của các pháp số từ 1 đến 11 pháp. Theo Tát-bà-đa Tỳ-ni Tỳ-bà-sa, Tăng Nhất A-hàm là một bộ kinh tổng tập những bài thuyết pháp của Đức Phật tùy thời giảng nói cho chư thiên và chúng sinh nghe. Toàn kinh gồm 52 phẩm, 472 kinh. Kinh này có sắc thái Đại Thừa rất đậm, được thành lập trễ nhất trong 4 bộ A-hàm. Về số phẩm và số quyển của Kinh Tăng Nhất A-hàm, 3 bản đời Tống, đời Nguyên và đời Minh có 52 phẩm, 50 quyển; trong Cao Ly Tàng Bản thì có 50 phẩm, 51 quyển.
Kinh này tương đương với Tăng Chi Bộ (Pàli: Anguttara-Nikaya) trong 5 bộ kinh hệ Nam truyền. Các học giả cận đại cho rằng Kinh Tăng Nhất A-hàm là do một phái nhỏ sau cùng của Đại Chúng Bộ truyền.
(Trích “Khái quát về nguồn gốc Kinh A-hàm” – Thượng Tọa Thích Nguyên Hiền).
———=oOo=———
— HẾT KINH TĂNG NHẤT A-HÀM—