Trên đầu của những người xuất gia theo đạo Phật thường có những vết sẹo tròn, đây là vết tích của việc đốt hương cúng dường chư Phật. Trong Phật Giáo, lễ này còn được gọi là Tấn Hương (đốt hương), Nhiệt Đảnh (đốt đầu) hay còn gọi là Đốt Liều.
oOo
Giới Tử khi thọ giới Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni tự nguyện cúng dường đốt liều (tấn hương) lên đầu để răn nhắc mình là Tỷ-kheo.
Xuất xứ của chữ này được thấy trong Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm: “…Nếu như sau khi Như Lại diệt độ, giả như có Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu tâp thiền định mà có thể đối trước hình tượng của Như Lai đốt một ngọn đèn, đốt một lóng tay, cho đến đốt một chấm hương trên thân thể của mình thì Như Lai nói rằng tất cả những nghiệp chướng nhiều đời của người này lập tức trả hết; và tuy thường sống ở thế gian nhưng đã vĩnh viễn thoát ly phiền não. Tuy chưa chứng được Vô Thượng Bồ Đề, nhưng người này đối với giáo pháp của Như Lai, tâm đã quyết định. Nếu như không làm được một chút nhân nhỏ về sự xả thân như vậy thì cho dù có đạt được Vô Vi, rồi cũng phải sanh trở lại làm người hoàn trả nợ cũ…” (Lăng Nghiêm Kinh – quyển 6).
Đây chính là nói đến sự chân thành, quyết tâm tin Phật của người xuất gia. Vết sẹo chấm hương đó không phải chỉ có ở trên đầu mà là ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể cũng đều có thể được. Số lượng chấm hương trên đầu cũng không nhất định; có thể là 1 liều, 3 liều, 6 liều, 9 liều, 12 liều, càng nhiều càng biểu hiện tâm kiền thành. Có người còn đốt một hoặc hai ngón tay.
Lúc “tấn hương”, người tu sĩ phải mặc áo cà sa, ngồi ngay thẳng, nghiêm trang trước bàn thờ Phật; có thể có nhân viên y tế đo và đánh dấu trên đầu trước để tránh trúng mạch máu và dây thần kinh gây nguy hiểm cho bản thân. Ngoài ra, bên cạnh còn có những người phụ giúp xem hương cháy được chừng nào và có ai bị xỉu, bị chảy máu hay không.
Điều đặc biệt khiến người phát nguyện “Tấn Hương” quên đi nỗi đau xác thịt là nhờ sự đồng thanh niệm danh hiệu Phật và trì tụng thần chú của Chư Tăng-Ni, Phật Tử hòa cùng âm thanh của chuông trống Bát Nhã vang khắp gian phòng.
Viên hương tròn được bỏ lên đầu của mỗi người làm từ bột trầm hương và lá ngải cứu. Trầm để cho thơm và dễ cháy, còn ngải cứu là vị thuốc chống nhiễm trùng và nhanh lành vết thương.
Hai thứ này trộn lại, vo tròn, quấn trong tờ giấy mỏng hút thuốc lá bằng hạt bắp, phía dưới được làm to ra bằng móng tay út, phần trên vấn lại nhọn để làm ngòi khi thắp lửa. Thời gian đốt từ 20 đến 30 phút, tùy thuộc vào độ cháy và da thịt của mỗi người.
Nguồn gốc của việc “Tấn hương”:
Tấn hương trên đầu bắt đầu từ lúc nào còn phải đợi sự khảo chứng. Thế nhưng vào thời Đường và Tống (Trung Hoa), dường như chưa thấy có tục lệ này. Ví dụ như pho tượng điêu khắc về chân thân của ngài Giám Chân (688-763) – một bậc Cao Tăng đời Đường (do đệ tử của ngài là Tư Thác làm, được lưu giữ hơn 1.200 năm tại Nhật Bản) thì không thấy có vết tích của sự tấn hương trên đầu.
Lại nữa, như tượng của Ngài Huyền Trang – một nhà lữ hành, một nhà dịch kinh vĩ đại, trên đầu đều không thấy vết tích của sự tấn hương. Lúc bấy giờ, một số Cao Tăng của Nhật Bản đến Trung Quốc học Phật Pháp cũng không thấy đề cập đến vấn đề tấn hương trên đỉnh đầu.
Tục tấn hương trên đỉnh đầu thịnh hành vào đời nhà Nguyên. Theo một đoạn văn được ghi chép trong “Tân Tục Cao Tăng Truyện” nói về ngài Sa Môn Thích Chí Đức ở chùa Thiên Hỷ tại Kim Lăng vào đời nhà Nguyên:
“Vào năm Chí Nguyên thứ 25 (1288), Nguyên Thế Tổ triệu kiến ngài Chí Đức…”;”…ban tặng tiệc chay và cà-sa tía, ra lệnh bổ nhiệm ngài trụ trì hai chùa Thiên Hỷ và Kỳ Trung. Thỉnh ngài thuyết giảng kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Duy Thức và các Sớ Giải trong thời gian ba năm. Đồng thời, đặc biệt ban tặng ngài hiệu là Phật Quang Đại Sư…”; “…Khi truyền giới cho bảy chúng đệ tử, nhất định dạy cho họ nên cùng với cha mẹ, anh em hướng dẫn nhau tu tập, đừng có vi phạm. Còn như việc tấn hương trên đầu là thể hiện cho việc phát nguyện trọn đời theo Phật…”; “…Lúc bấy giờ, ngài Chí Đức được Nguyên Thế Tổ triệu kiến, có thể thấy uy thế tiếng tăm của ngài rất cao. Khi ngài truyền giới, tất cả đệ tử của ngài đều phải tấn hương trên đỉnh đầu để chứng minh tâm nguyện trọn đời theo Phật…”
Lại có truyền thuyết cho rằng, người Mông Cổ (ý chỉ nhà Nguyên) đề xướng việc tấn hương trên đỉnh đầu là để làm tiêu chí phân biệt giữa Tăng Sĩ người Hán với Lạt Ma.
Tự nguyện hiến dâng cho Đạo Pháp:
– Tấn hương là một nghi thức biểu thị ý chí khao khát học hạnh Bồ-tát, nguyện hiến trọn cuộc đời mình phục vụ Đạo Pháp và cuộc sống con người. Các liều hương này hoàn toàn không nói lên phẩm đức của vị Tỳ-kheo tu cao hay thấp.
– Việc phát nguyện tấn hương diễn ra sau khi các đệ tử tu theo đạo Phật thọ giới Tỳ-kheo và Bồ-tát giới. Lễ Tấn Hương này chỉ thấy trong các Đại Giới Đàn thuộc Phật Giáo Bắc Tông (hay Đại Thừa); còn đối với Phật Giáo Nam Tông (hay Tiểu Thừa) không có truyền thống tấn hương này. Tuy vẫn chưa một ai xác định được việc tấn hương này có từ bao giờ, nhưng ai cũng biết rõ là truyền thống này truyền từ Phật Giáo Trung Hoa vào Việt Nam đã từ rất lâu.
– Đa số Tăng Ni Phật Giáo đều cho rằng, việc tấn hương là sự cúng dường giá trị tâm linh cao lớn nhất, không phải dễ dàng làm được. Đó là hạnh phúc nhất của cuộc đời tu theo Phật. Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng, để cho da thịt cháy như vậy là không cần thiết và có hại cho sức khỏe.
– Không chỉ người xuất gia mới phát đại nguyện Tấn Hương như vậy, mà ngay cả những Phật Tử tại gia khi phát tâm thọ giới Bồ-tát cũng có người cạo đi một nhúm tóc trên đầu mình và xin đốt một chấm hương. Tấn hương cúng dường không phân biệt chủng tộc, nam, nữ… cứ ai phát nguyện thọ giới Bồ-tát, phát tâm đốt một phần trên cơ thể mình để cúng dường thì đốt.
– Mỗi kỳ thọ Đại Giới, những người nào thọ giới Sa-di sẽ đốt một liều hương. Còn với người thọ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thường đốt 3 liều hương. Mức độ đốt nhiều hay ít là do người đó phát nguyện. Riêng với Phật Tử tại gia, việc tấn hương cúng dường tùy theo tâm nguyện của người đó.
Ý nghĩa sâu xa của 3 liều hương:
1. Thể hiện lòng kính tin Tam Bảo.
2. Thể hiện cho ba điều thệ nguyện là: Đoạn trừ tập nhiễm và ý nghĩ xấu; Vun trồng thiện nghiệp; Thủ đắc trí tuệ để giúp người khác thoát khổ.
3. Thể hiện cho sự cố gắng tu tập Giới, Định, Tuệ.
Tuy nhiên, cạo tóc hay “tấn hương” trên đầu dĩ nhiên không quan trọng bằng sự thể hiện cái nội dung cốt lõi mà hai điều này tượng trưng: Đó là cái tâm đoạn trừ phiền não, ly tham; kính tín Tam Bảo, kiên trì tu tập, tinh tấn trong giải thoát./.
HẠO NHIÊN – Phật Học & Đời Sống.