TỔNG QUÁT ĐỊA LÝ & DÂN CƯ VIỆT NAM
I/ VỊ TRÍ – HÌNH THỂ – RANH GIỚI:
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới thuộc Bắc bán cầu. Không tính các quần đảo, tọa độ địa lý Việt Nam có điểm cực Bắc (Đồng Văn, Hà Giang) ở khoảng 23 24′ Bắc vĩ độ, điểm cực Nam (Mũi Cà Mau, An Xuyên) ở khoảng 8 33′ Bắc vĩ độ, điểm cực Tây (A Pa Chai, Lai Châu) ở khoảng 102 16′ Đông kinh độ, và điểm cực Đông (Mũi Nạy, giữa Tuy Hòa và Nha Trang) ở khoảng 109 44′ Đông kinh độ.
Nước Việt Nam hình cong như chữ S, phía Bắc giáp các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và một phần tỉnh Quảng Đông của Trung Hoa, phía Tây giáp Lào và Cambodia, phía Nam giáp vịnh Rạch Giá, phía Đông giáp Đông Hải.
Diện tích nước Việt Nam khoảng 331.000km2, 75% lãnh thổ là núi và cao nguyên, 25% còn lại là bình nguyên và sông ngòi. Chiều dài lãnh thổ Việt Nam từ Đồng Văn đến Mũi Cà Mau khoảng 1.650km. Chiều ngang rộng nhất là khoảng cách từ Lai Châu sang Móng Cái, chừng 600km. Chiều ngang hẹp nhất là ở Đồng Hới, từ biên giới Lào ra bờ Đông Hải chỉ vào khoảng 37km.
Việt Nam nằm trên trục giao thông của nhiều quốc gia nên chiếm một vị trí đặc biệt về kinh tế và chính trị trong vùng Đông Nam Á.
II/ DUYÊN HẢI – HẢI ĐẢO:
Biển Việt Nam về phía Đông Hải tương đối cạn, thềm lục địa dọc duyên hải ít nơi sâu quá 100m, chỉ ở ngoài khơi khoảng giữa Tuy Hòa và Phan Thiết là có những hố sâu từ 3.000 tới 4.000m. Do ảnh hưởng của địa thế, từ vịnh Bắc phần xuống tới Phan Thiết, thủy triều có biên độ 1,5m và mỗi ngày lên xuống một lần. Từ Vũng Tàu xuống tới Mũi Cà Mau, thủy triều lên xuống mỗi ngày hai lần và có biên độ trung bình gần 2m. Ngoài khơi Đông hải có một dòng hải lưu chảy theo chiều gió mùa.
Biển Việt Nam về phía vịnh Thái Lan cũng tương đối cạn. Người ta ước lượng nếu mực nước biển vùng này rút thấp xuống độ 200m, duyên hải Nam phần sẽ nối liền với Indonesia và cả vịnh Thái Lan sẽ biến thành một bình nguyên rộng lớn. Chiều dài bờ biển Việt Nam lên tới 2.500km, có nhiều hải cảng tốt, ngoài khơi có nhiều quần đảo như Phú Quốc (gần Hà Tiên), Côn Sơn (phía Đông Mũi Cà Mau), Trường Sa (ngoài khơi Phan Thiết), và Hoàng Sa (ngoài khơi Đà Nẵng). Duyên hải Việt Nam là một trục giao thông quan trọng của vùng Á Châu Thái Bình Dương và là kho hải sản vô tận của nền ngư nghiệp Việt Nam. Theo đặc tính địa thế, bờ biển Việt Nam có thể được chia thành những đoạn như sau:
* Đoạn Móng Cái – Hải Phòng: Bờ biển hiểm trở. Trong các vịnh ven biển như vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long có hàng ngàn đảo nhỏ và những đảo lớn như Cái Bầu, Cát Bà, Cái Bàn… Phong cảnh hang động và đảo ở vịnh Hạ Long được xen như một kỳ quan ngoạn mục nhất vùng biển Đông Nam Á. Hải Phòng là một hải cảng quan trọng trong đoạn bờ biển này.
* Đoạn Hải Phòng – Quy Nhơn: Bờ biển thấp và phẳng, có nhiều đầm nước mặn như phá Tam Giang ở Thừa Thiên, đầm Thị Nại ở Bình Định…. Những dãy núi Trường Sơn đâm ngang trong đoạn này tạo thành những mũi đá nhô ra biển như mũi Sầm Sơn ở Thanh Hóa, mũi Rọn dưới chân đèo Ngang giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình, mũi Chân Mây dưới chân đèo Hải Vân giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, mũi Ba Làng An ở Quảng Ngãi, mũi Yến ở Quy Nhơn…. Những hải cảng quan trọng trong đoạn bờ biển này là Đà Nẵng và Quy Nhơn.
* Đoạn Quy Nhơn – Phan Rang: Bờ biển cao và hiểm trở vì rặng Trường Sơn chạy dài ra tới biển, tạo thành nhiều mũi đá như mũi Nạy dưới chân đèo Cả giữa Phú Yên và Khánh Hòa, mũi Dinh ở phía Nam Phan Rang…. Đoạn này cũng có nhiều vũng biển lánh bão rất tốt như vũng Làng Mai ở Quy Nhơn, vũng Hòn Khói và vịnh Cam Ranh ở Khánh Hòa…. Trong đoạn này, Đại Lãnh là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Nha Trang là một hải cảng quan trọng. Cam Ranh là một trong những hải cảng thiên nhiên lý tưởng vào bậc nhất thế giới.
* Đoạn Phan Rang – Vũng Tàu: Bờ biển khá cao, có nhiều đụn cát và những mũi đá nhô ra biển như mũi Né ở Bình Thuận, mũi Kê Gà ở Bình Tuy, mũi Vũng Tàu.
* Đoạn Vũng Tàu – Hà Tiên: Bờ biển bằng phẳng nhờ bao quanh một vùng bình nguyên rộng, có nhiều nơi chưa được bồi đủ cao nên có nhiều khu rừng đước, tràm, bần vẫn còn ngập nước. Về phía vịnh Thái Lan, bờ biển Việt Nam có nhiều đảo nhỏ, quần đảo Phú Quốc lớn nhất với diện tích 600km2, rộng hơn cả quốc gia Singapore.
III/ ĐỒI NÚI – CAO NGUYÊN:
Hầu hết các miền núi và cao nguyên Việt Nam tập trung ở Bắc và Trung phần, đa số là núi cổ, cao nhất là ngọn Hoàng Liên Sơn, 3.142m.
1. Núi và cao nguyên Bắc phần, chiếm 85% diện tích đất đai, cung cấp các loại lâm sản quý và khoáng sản, có thể được chia làm ba khu vực chính:
1.a. Về phía Đông Bắc sông Hồng, các rặng núi nằm theo hình cánh quạt, trung tâm là ngọn Tam Đảo thuộc phía Bắc tỉnh Vĩnh Yên. Từ Tả ngạn sông Hồng ra tới Móng Cái có những rặng núi và cao nguyên sau đây:
* Khoảng giữa sông Hồng và sông Chảy có rặng Con Voi, thuộc tỉnh Yên Báy, với cao nguyên Bảo Hà nằm cạnh thung lũng sông Hồng.
* Khoảng giữa sông Chảy và sông Lô, về phía Bắc có cao nguyên Pakha thuộc tỉnh Lào Kay, cao nguyên Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang với ngọn Tây Côn Lĩnh cao 2.431m. Về phía Nam có cao nguyên Lục An Châu, thuộc tỉnh Yên Báy.
* Khoảng giữa sông Lô và sông Gầm là một vùng cao nguyên rộng lớn nằm trên hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, cao trung bình khoảng 800m ở phía Bắc và thấp dần còn 400m về phía Nam.
* Khoảng giữa sông Gầm và sông Cầu là dãy núi cánh cung Sông Gầm, có ngọn Piaya cao gần 2.000m, nằm trên ranh giới hai tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn.
* Khoảng giữa sông Cầu và sông Thương có hai dãy núi. Rặng Ngân Sơn và cao nguyên Nguyên Bình thuộc tỉnh Cao Bằng. Và rặng Bắc Sơn, còn gọi là rặng Cai Kinh, thuộc hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn.
* Khoảng giữa sông Lục Nam và bờ Đông Hải là cánh cung Đông Triều, trải dài trên các tỉnh Hải Dương, Quảng Yên và Hải Ninh, với một số núi bị sụt xuống biển tạo thành vùng đảo vịnh Hạ Long.
1.b. Về phía Tây Nam sông Hồng là những rặng núi cao nhất Việt Nam, và chiếm phần lớn diện tích vùng này.
* Khoảng giữa sông Hồng và sông Đà, từ phía Bắc đổ xuống có những rặng núi theo chiều Tây-Bắc-Đông-Nam: Rặng Lào Kay thuộc phía Bắc tỉnh Lào Kay. Rặng Hoàng Liên Sơn cũng nằm trong địa phận tỉnh Lào Kay, có ngọn Hoàng Liên Sơn ở phía Nam Chapa (Sapa), cao 3.142m. Cao nguyên Chapa là nơi nghỉ mát nổi tiếng. Về phía nam cao nguyên này có Rặng Nam Kim thuộc tỉnh Yên Báy và rặng Sa Phin nằm trên ranh giới Yên Báy và Sơn La.
* Khu tả ngạn thượng lưu sông Đà, phân ranh Hoa-Việt là rặng núi Si Lung. Dọc theo ranh giới hai tỉnh Lai Châu và Lào Kay là rặng núi Lai Châu, kéo dài xuống đoạn sông Đà ở phía Đông thị trấn Lai Châu là cao nguyên Ta Phinh.
* Khoảng giữa sông Đà và biên giới Lào-Việt là một vùng núi và cao nguyên xếp nếp, trải dài từ góc Tây-Bắc tỉnh Lai Châu xuống tới vùng châu thổ sông Hồng, bao quanh nhiều khu lòng chảo là địa bàn sinh hoạt của đồng bào sắc Thái, nên còn gọi là cao nguyên xứ Thái. Dọc theo hữu ngạn sông Đà, từ thị trấn Lai Châu xuống tới ranh giới tỉnh Sơn La là cao nguyên Sintiai. Tiếp theo là cao nguyên Sơn La và cao nguyên Yên Châu-Mộc Châu. Dọc sát biên giới Lào-Việt có những rặng núi Pu Nam Lương thuộc tỉnh Lai Châu và Pu Nam Sao, Pha Lương, thuộc tỉnh Sơn La.
1.c. Vùng châu thổ sông Hồng. Về phía Đông vùng này có những đồi thấp, cao nhất là ngọn Tam Đảo, 1.590m. Về phía Tây có nhiều đồi trải dài từ khúc quanh của sông Đà thuộc các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn Tây cho tới Ninh Bình là khu sinh hoạt của đồng bào sắc Mường, nên còn được gọi là xứ Mường. Dọc theo ranh giới hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình về phía Bắc sông Mã là rặng núi Tam Điệp.
2. Núi và cao nguyên Trung Phần chiếm 90% diện tích đất đai, là kho lâm sản và cây kỹ nghệ chính yếu của Việt Nam.
2.a. Rặng Trường Sơn chạy dọc theo biên giới Lào-Việt, cao độ trung bình là 1.000m, gồm nhiều đoạn:
* Đoạn Trường Sơn Nghệ An, có những ngọn núi cao như Pu Huatt ở phía Bắc huyện Mường Lam, cao 2.452m, ngọn Pu Xai Lai Leng ở phía Nam huyện Mường Sen, cao 2.711m, ngọn Pu Nam San ở phía Tây huyện Khê Bố, cao 1.563m và ngọn Bà Mụ ở phía Tây huyện Hương Sơn thuộc Hà Tĩnh, cao 1.357m. Quốc lộ 8 thông sang Ai Lao bằng đèo Keo Nưa.
* Đoạn Hà Tĩnh tới đèo Hải Vân, gồm nhiều dãy. Dãy Giăng Màn, ở phía Tây huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Dãy Hoành Sơn, ở ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình, cắt quốc lộ 1 tại đèo Ngang. Dãy Răng Cọp thuộc hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quốc lộ 15 thông sang Lào bằng đèo Mụ Già, Quốc lộ 9 từ Quảng Trị sang Lào qua đèo Lao Bảo. Dãy Bạch Mã trên ranh giới Thừa Thiên-Quảng Nam, đâm ngang ra biển, cắt quốc lộ 1 ở đèo Hải Vân.
* Đoạn Hải Vân tới đèo Cả bắt đầu tiếp giáp với vùng cao nguyên Trung phần, gồm những dãy núi chính: Dãy A Tuất thuộc tỉnh Quảng Nam. Dãy Komtum, có ngọn Ngọc Lĩnh nằm trên ranh giới Quảng Tín-Kontum, cao 2.590m. Dãy Bình Định chạy dọc theo ranh giới Bình Định-Pleiku, cắt quốc lộ 19 tại đèo An Khê và đèo Măng Giang.
* Đoạn đèo Cả tới Bình Thuận: các dãy núi chạy dọc theo duyên hải và bao quanh các cao nguyên Nam Trung phần. Dãy Phú Yên-Khánh Hòa cắt quốc lộ 1 tại đèo Cả và nhô ra biển ở Mũi Nạy, phía Bắc Đại Lãnh. Cao nhất dãy này là ngọn Vọng Phu ở khoảng giữa Khánh Dương-Dục Mỹ thuộc tỉnh Khánh Hòa.
2.b. Cao nguyên Nam Trung Phần, nằm về phía Tây rặng Trường sơn, trải dài từ Quảng Nam xuống tới Long Khánh, có nhiều rừng cây, đồng cỏ và nhiều đồi đất đỏ phì nhiêu.
* Cao nguyên Gia Lai kéo dài từ phía Nam đèo Hải Vân tới thung lũng sông Ba thuộc tỉnh Phú Bổn, bao gồm địa phận hai tỉnh Kontum và Pleiku.
* Cao nguyên Đaklak nằm về phía Nam của cao nguyên Gia Lai, cao độ trung bình 1.000m, chiếm trọn địa phận tỉnh Đaklak.
* Cao nguyên Lâm Viên có cao độ trung bình 1.500m, ngọn Lâm Viên cao nhất vùng, 2.163m. Tỉnh Tuyên Đức (nay là Lâm Đồng) và thị xã Đà Lạt là nơi nghỉ mát và có nhiều thắng cảnh nổi tiếng.
* Cao nguyên Di Linh thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng, thấp dần về phía Nam thuộc các tỉnh Bình Tuy (nay là Bình Thuận) và Long Khánh (nay là Đồng Nai), có nhiều đồi đất tốt cho trà và cà phê.
* Cao nguyên Mơ Nông nằm về phía Tây hai cao nguyên Lâm Viên và Di Linh, thuộc địa phận tỉnh Quảng Đức (nay là Lâm Đồng), cao độ trung bình 800m, thấp dần về phía biên giới Lào.
* Cao nguyên Châu Ma thuộc địa phận các tỉnh Bình Long, Phước Long, Phước Thành (nay là Bình Phước) và một phần các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương. Cao độ trung bình là 600m, đất tốt cho cà phê, cao su.
IV/ SÔNG NGÒI:
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nên có rất nhiều sông rạch, lưu lượng vào mùa mưa rất cao, chở nhiều phù sa bồi đắp cho các vùng bình nguyên. Hai sông lớn là Hồng Hà và Cửu Long có thượng nguồn phát nguyên từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, các sông còn lại thường hẹp và ngắn, phát nguyên từ nội địa.
1. Hệ thống sông Hồng
Sông Hồng phát nguyên từ Vân Nam, Trung Hoa, dài 1.200 cây số nhưng chỉ có 510 cây số chảy qua các tỉnh Lào Kay, Yên Báy, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Nam Định và đổ ra biển Việt Nam ở cửa Ba Lạt. Sông Hồng có lưu lượng không đều, khoảng 700 thước khối một giây vào mùa nắng, lên đến 30.000 thước khối một giây vào mùa mưa, trung bình một thước khối nước chứa khoảng 1 kí-lô phù sa màu đỏ. Phụ lưu Tây Nam của Hồng Hà là sông Đà, còn gọi là Hắc Giang, chảy qua các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, rồi vòng lên Phú Thọ và đổ vào sông Hồng ở Việt Trì.
Phụ lưu Đông Bắc của Hồng Hà là sông Lô, chảy qua Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, rồi đổ vào sông Hồng cũng ở Việt Trì. Sông Lô có hai phụ lưu là sông Chảy ở hữu ngạn và sông Gầm ở Tả ngạn. Sông Chảy dẫn ngang qua các tỉnh Lào Kay, Yên Báy, Tuyên Quang và nhập vào sông Lô ở Đoan Hùng. Sông Gầm chảy từ Cao Bằng ngang qua gần suốt chiều Bắc-Nam của tỉnh Tuyên Quang, nhập vào sông Lô ở phía Bắc thị trấn Tuyên Quang. Sông Gầm có một nhánh nhỏ ăn thông với hồ Ba Bể.
Từ Việt Trì ra biển, Hồng Hà có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Châu. Hai sông này nối Hồng Hà thông với sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang) Nối thông Hồng Hà và sông Đáy là hai sông Phủ Lý vàNamĐịnh.
2. Hệ thống sông Thái Bình
Hệ thống sông Thái Bình hợp bởi Sông Cầu, sông Thương và sông LụcNam. Sông Cầu phát nguyên từ Bắc Kạn chảy qua Chợ Chu tỉnh Thái Nguyên và trở thành ranh giới hai tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh. Sông Thương phát nguyên từ Lạng Sơn chảy qua Phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Sông LụcNamphát nguyên từ cao nguyên An Châu tỉnh Bắc Giang, chảy qua LụcNamcũng thuộc Bắc Giang. Cả ba sông này hợp nhau tại Phả Lại thành sông Thái Bình, chảy qua tỉnh Hải Dương và đổ ra biển bằng cửa Thái Bình.
Các phân lưu chảy ra biển của hệ thống này còn được gọi là Lục Đầu Giang, tất cả đều nằm về phía tả ngạn sông Thái Bình: Sông Văn Úc, một đoạn tên sông Hương, một đoạn tên sông Rang, đổ ra cửa Văn Úc. Sông Lạch Tray, nối sông Văn Úc chảy ngang qua Hải Phòng, ra biển bằng cửa Rạch Tray. Sông Kinh Thầy, thoát lưu của sông Thái Bình từ Phả Lại, đến Thạch Liên chia thêm một nhánh nhỏ là sông Kinh Môn, hai nhánh này nhập lại trước khi đổ ra biển ở cửa Cấm. Phân lưu sau cùng của sông Thái Bình là sông Đà Bạch, tức Bạch Đằng Giang, cửa sông là một vùng đồng lầy rộng lớn.
3. Hệ thống sông Kỳ Cùng
Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ vùng núi cực đông tỉnh Lạng Sơn, theo hướng núi, chảy ngược về phía Tây-Bắc, qua Kỳ Lừa, Đồng Đăng, đến Thất Khê lại đổi sang hướng Đông, chảy qua Bi Nhì hướng về thị trấn Lung Ching tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa. Một phụ lưu của sông Kỳ Cùng là sông Bắc Giang, phát nguyên là sông Na Rì, chảy qua huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn, huyện Vân Mít tỉnh Lạng Sơn, rồi đổ vào sông Kỳ Cùng ở Thất Khê. Trong hệ thống này còn có sông Bằng Giang, phát nguyên từ cao nguyên Nguyên Bình chảy qua thị trấn Cao Bằng rồi đổ vào sông Kỳ Cùng ở Lung Ching, tạo thành Tây Giang của Trung Hoa.
4. Hệ thống sông ngòi Thanh-Nghệ-Tĩnh
* Sông Mã, phát nguyên từ cao nguyên Sintiai tỉnh Sơn La, một đoạn sông này chảy qua lãnh thổ Lào rồi quay về lại Việt Nam ở ranh giới Sơn La-Thanh Hóa, đổ ra biển ở cửa Hội, phía Bắc bãi Sầm Sơn. Sông Mã có một phụ lưu là sông Chu, phát nguyên từ Sầm Nứa, Lào, chảy qua các huyện Bái Thượng, Thọ Xuân, Thiện Hoa, và đổ vào sông Mã ở phía Bắc tỉnh lỵ Thanh Hóa.
* Sông Cả, phát nguyên là sông Nam Mô từ Nông Het bên Lào, chảy qua suốt chiều ngang tỉnh Thanh Hóa theo chiều Tây Bắc-Đông Nam, đến phía Nam thành phố Vinh gặp khu núi hoa cương ở Bến Thủy nên chảy ngược lên hướng Bắc trước khi đổ ra biển ở cửa Hội Thống. Sông Cả có một phụ lưu ở hữu ngạn là sông Hương Khê thuộc địa phận Hà Tỉnh và một phụ lưu phía tả ngạn là sông Con, chảy từ huyện Nghĩa Hưng đổ vào sông Cả ở Côn Cường.
5. Hệ thống sông ngòi Bình-Trị-Thiên
* Sông Gianh, còn gọi là sông Rao Nay hay Linh Giang, phát nguyên từ Đồng Đầm, chảy trong địa phận tỉnh Quảng Bình dọc phía Nam dãy Hoành Sơn, đổ ra biển ở Mỹ Hòa Thượng.
* Đài Giang, phát nguyên từ góc Tây-Nam tỉnh Quảng Bình, chảy ngược về hướng Đông Bắc, ngang qua Phong Lộc thì đổi hướng chính Bắc, đổ ra biển ở cửa Nhật Lệ, Đồng Hới.
* Sông Bến Hải, phát nguyên từ góc Tây-Bắc tỉnh Quảng Trị, chảy về hướng Đông, ngang qua Trung Lương, đổ ra biển ở cửa Tùng.
* Sông Cam Lộ, còn gọi là sông Bồ Điền, chảy từ biên giới Lào-Việt qua Đông Hà rồi đổ ra biển ở cửa Việt. Sông Cam Lộ có một phụ lưu về phía hữu ngạn là Hàn Giang, còn gọi là sông Thạch Hãn hay sông Quảng Trị, phát nguồn từ quận Hương Hóa, chảy qua Ba Lòng và tỉnh lỵ Quảng Trị rồi nhập vào sông Cam Lộ ở gần Đông Hà.
* Sông Hương, kết hợp bởi hai phụ lưu là Tả Trạch và Hữu Trạch ở Nam Hòa rồi chảy ngang qua thành phố Huế và đổ ra biển ở cửa Thuận Hóa (Thuận An).
6. Hệ thống sông ngòi Nam-Ngãi-Bình-Phú
* Sông Boung, còn gọi là sông Bông hay sông Bùng, phát nguyên từ phía cực Tây tỉnh Quảng Nam, chảy qua Thường Đức, Duy Xuyên và đổ ra biển ở cửa Hội An. Một phụ lưu ở phía hữu ngạn sông này là sông Thu Bồn, kết hợp bởi sông Tranh và sông Khang phát nguồn từ tỉnh Quảng Tín (Nay là Quảng Nam) chảy ngược lên Quảng Nam và nhập vào sông Bông ở quận Đại Lộc.
* Sông Tam Kỳ, rất ngắn, chảy ngang thành phố Tam Kỳ.
* Sông Trà Bồng, chảy qua quận Trà Bồng và Bình Sơn thuộc Quảng Ngãi.
* Sông Trà Khúc, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Quảng Ngãi, chảy qua quận Sơn Hạ và tỉnh lỵ Quảng Ngãi.
* Sông An Lão, chảy theo chiều Bắc-Nam, qua quận An Lão xuống đến Hoài Nhơn (tỉnh Bình Định) thì nhập vào Lại Giang, đổ ra biển ở Kim Giác.
* Sông Mang, phát nguồn là sông Hà Giao thuộc quận Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, chảy qua Bình Khê, An Nhơn và đổ ra đầm Thị Nại.
* Sông Đà Rằng, thượng nguồn là sông Ba, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Bình Định, chảy về hướng Nam, qua An Túc (An Khê) vào địa phận tỉnh Phú Bổn, xuống tới tỉnh lỵ Hậu Bổn (các tỉnh Phú Bổn và Hậu bổn nay chia ra thuộc vào các tỉnh Daklak và Gia Lai-Kontum) thì đổi thành hướng Đông-Nam, vào địa phận tỉnh Phú Yên ngang qua Sơn Hòa, Hiếu Xương rồi đổ ra biển bằng cửa Đà Rằng ở phía Nam tỉnh lỵ Tuy Hòa
7. Hệ thống sông ngòi Khánh-Thuận
* Sông Cái, phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên, chảy ngang địa phận Khánh Hòa qua Diên Khánh, Vĩnh Xương và đổ ra biển ở Nha Trang.
* Sông Dinh, còn có tên là sông Kinh Dinh, thượng nguồn gồm nhiều phụ lưu nhỏ và một thoát lưu của đập Đa Nhim phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên, chảy qua địa phận tỉnh Ninh Thuận và đổ ra biển ở vũng Phan Rang.
* Sông Lũy, gồm các phụ lưu Cà Tót ở Hữu ngạn, sông Cái Giấy và sông Mao ở tả ngạn, chảy trong địa phận tỉnh Bình Thuận và đổ ra biển ở Phan Rí.
* Sông Mường Mán ở phía Nam tỉnh Bình Thuận, đổ ra biển ở Phan Thiết.
8. Hệ thống sông ngòi phía Tây Cao Nguyên
Về phía Tây rặng Trường Sơn trên các cao nguyên Gia Lai và Đaklak có những sông chảy ngược về hướng Tây qua Cambodia, đổ vào sông Cửu Long:
* Krong Bo+lah, phát nguyên từ cao nguyên Gia Lai, chảy dọc theo ranh giới Kontum-Pleiku, đổ vào sông Sé San của Cambodia.
* Ea Hleo và phụ lưu Ea Drang chảy thành ranh giới hai tỉnh Pleiku-Đaklak, đổ vào sông Sprépok của Cambodia.
* Krong Knô, phát nguồn là sông Da Troung chạy thành ranh giới hai tỉnh Tuyên Đức-Quảng Đức (Lâm Đồng), ngược về hướng Tây-Bắc, có hai đoạn làm ranh giới Quảng Đức-Đaklak rồi vào hẳn địa phận Đaklak ở phía Nam Ban Mê Thuộc, có tên Ea Krong, rồi lại đổi tên Se Bang Khan trước khi chảy sang Cambodia thành sông Séprok.
* Dak Dầm là một phụ lưu tả ngạn của Se Bang Khan, chảy dọc biên giới Cambodia với một phần tỉnh Quảng Đức (Lâm Đồng) và một phần tỉnh Đaklak.
9. Hệ thống sông Đồng Nai
* Sông Đồng Nai, thượng nguồn là sông Đa Dung và sông Đa Nhim nằm hai bên thành phố Đà Lạt, có nhiều thác nước hùng vĩ. Hai sông này gặp nhau ở ranh giới tỉnh Tuyên Đức-Lâm Đồng. Từ đó, sông Đa Dung chảy về hướng Tây, làm thành ranh giới tỉnh Lâm Đồng-Quảng Đức. Khi vào địa phận tỉnh Phước Long (Bình Phước) thì đổi sang hướng Nam rồi Tây Nam và trở thành sông Đồng Nai, chảy qua các tỉnh Long Khánh, Biên Hòa (nay là Đồng Nai), Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh).và đổ ra biển bằng hai thoát lưu Nhà Bè (Soài Rạp) và Lòng Tảo.
* Sông La Ngà, là một phụ lưu về phía tả ngạn sông Đồng Nai, phát nguyên từ tỉnh Lâm Đồng, chảy qua tỉnh Bình Tuy (Bình Thuận) và nhập vào sông Đồng Nai ở phía Tây quận Định Quán.
* Sông Bé, là một phụ lưu về phía hữu ngạn sông Đồng Nai, phát nguyên từ tỉnh Quảng Đức(Lâm Đồng), chảy qua các tỉnh Phước Long, Bình Long, Phước Thành (Bình Phước) và đổ vào sông Đồng Nai ở quận Hiếu Liêm, gần thác Trị An.
* Sông Sài Gòn, cũng là một phụ lưu hữu ngạn của sông Đồng Nai, phát nguyên từ đỉnh Bắc tỉnh Bình Long (Bình Phước), chảy xuôi Nam làm thành ranh giới Bình Long-Tây Ninh rồi qua các tỉnh Bình Dương, Gia Định (Tp. Hồ Chí Minh) trước khi đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè.
* Sông Vàm Cỏ, là phụ lưu hữu ngạn sau cùng của hệ thống sông Đồng Nai, thượng nguồn gồm hai nhánh: Vàm Cỏ Đông, phát nguyên từ góc Tây-Bắc tỉnh Tây Ninh, chảy qua tỉnh Hậu Nghĩa, Long An (tỉnh Hậu Nghĩa nay chia ra thuộc các tỉnh Long An, Tây Ninh và Tp Hồ Chí Minh). Vàm Cỏ Tây, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Kiến Tường (nay thuộc Long An), chảy xuống Long An. Hai nhánh Vàm Cỏ tụ hội ở gần quận Cần Đước rồi trở thành ranh giới Long An-Gò Công trước khi đổ vào sông Nhà Bè.
10. Hệ thống sông Cửu Long
Sông Cửu Long dài trên 4.200 cây số, phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Cambodia, đến Phnom Penh thì phân làm hai nhánh đổ về hướng Việt Nam là Tiền Giang và Hậu Giang, chảy trên lãnh thổ Việt Nam một đoạn chừng 250km, điệu nước đều hòa, có thể lưu thông quanh năm, và nối nhau bằng nhiều sông rạch miền Tây. Lưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000m3 nước một giây về mùa nắng, lên đến 120.000m3 một giây vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng miền Nam.
Tiền Giang có lòng sông rộng với nhiều cù lao ở giữa giòng, chảy qua Tân Châu (Châu Đốc), Hồng Ngự và Cao Lãnh (Kiến Phong, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) đến Cai Lậy (Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang) thì chia làm bốn sông đổ ra biển bằng sáu cửa:
* Sông Mỹ Tho, chảy qua tỉnh lỵ Mỹ Tho và phía Nam tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), ra biển bằng cửa Tiểu và cửa Đại.
* Sông Ba Lai chảy qua phía Bắc tỉnh Kiến Hòa (nay thuộc tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long), ra cửa Ba Lai.
* Sông Hàm Luông, chảy qua phía Nam tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), ra cửa Hàm Luông.
* Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) –Vĩnh Bình (Vĩnh Long), đổ ra biển bằng hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu.
Hậu Giang chảy qua Châu Phú, Long Xuyên (An Giang) Cần Thơ, Trà Ôn (Trà Vinh), Long Phú (Sóc Trăng), và đổ ra biển bằng ba cửa: Định An, Ba Thắc, Trần Đề.
11. Hệ thống sông nhỏ miền Tây
* Sông Giang Thạnh, phát nguyên từ Cambodia, vào Việt Nam ở đỉnh Bắc tỉnh Kiên Giang, đổ ra vịnh Rạch Giá ở Hà Tiên.
* Sông Cái Lớn và Cái Bé, phát nguyên từ tỉnh Chương Thiện (nay là tỉnh Hậu Giang), đổ ra biển ở Rạch Giá.
* Sông Trèm Trẹm, nối nguồn vào sông Cái Lớn bằng Kinh Cán Gáo ở Kiên An (Kiên Giang), chảy qua rừng U Minh, vào địa phận tỉnh An Xuyên (nay thuộc tỉnh Cà Mau) thành sông Ông Đốc, đổ ra vịnh Rạch Giá ở quận Sông Ông Đốc.
* Sông Bảy Hạp, chảy từ Quản Long (An Xuyên, nay là Cà Mau) ra vịnh Rạch Giá ở cửa Bảy Hạp.
* Sông Gành Hào, cũng từ Quản Long, nhưng chảy về phía Đông Hải, ra biển ở cửa Gành Hào.
* Sông Cửa Lớn, phát nguồn là các sông Đầm Dơi và Đầm Chim, đổ ra vịnh Rạch Giá ở mũi Ông Trang. Sông này lại có một nhánh nhỏ là sông Bồ Đề, chảy ra Đông Hải ở cửa Bồ Đề.
12. Hệ thống kinh đào miền Tây
Miền Tây Nam Phần có một hệ thống kinh đào chằng chịt, nối các sông lớn nhỏ thành một hệ thống thủy lộ và thủy nông quan trọng. Những kinh đào chánh có thể liệt kê theo thứ tự địa dư từ Kiến Tường (Long An) xuống tới An Xuyên (Cà Mau) như sau:
* Kinh Kỳ Hương, Mười Hai (Kiến Tường; nay là Long An).
* Kinh Xáng An Long, Tháp Mười, Đồng Tiến (Kiến Phong; nay là Đồng Tháp).
* Kinh Vĩnh Tế, Thần Nông, Ba Thê, Tri Tôn (Châu Đốc; nay là An Giang & Đồng Tháp).
* Kinh Mỹ Tho, Thương Mãi (Định Tường; nay là Tiền Giang).
* Kinh Bốn Tổng, Cái Sắn, Thốt Nốt (An Giang).
* Kinh Lấp Vò, (Sa Đéc, nay là Đồng Tháp).
* Kinh Hà Tiên-Rạch Giá, Rạch Giá-Thất Sơn, Rạch Giá-Long Xuyên, Cán Gáo (Kiên Giang).
* Kinh An Trường (Vĩnh Long).
* Kinh Long Vĩnh (Vĩnh Bình; nay là Trà Vinh).
* Kinh Ô Môn, Xà No, Phụng Hiệp (Phong Dinh).
* Kinh Trèm, Cái Lớn (Chương Thiện, nay là Hậu Giang).
* Kinh Khánh Hưng, Quan Lộ-Phụng Hiệp, Cai Xe (Ba Xuyên, nay là Hậu Giang).
* Kinh Canh Đền-Quan Lộ, Quan Lộ-Bạc Liêu, Phước Long-Vĩnh Mỹ, Quan Lộ-Gia Rai, Trèm-Hộ Phòng, Gành Hào-Gia Rai (Bạc Liêu).
* Kinh Kiểm Lâm, Cà Mau-Gia Rai (An Xuyên, nay là Cà Mau).
13. Hệ thống suối nhiệt khoáng Việt Nam
Theo đặc tính hóa chất, các suối nhiệt khoáng sulfat nằm rải rác trên các vùng cao nguyên Tây-Bắc Bắc phần, các suối nhiệt khoáng bicarbonate lại xuất hiện từ vùng cao nguyên phía Tây Trường Sơn vào đồng bằng Nam phần:
* Loại suối sulfat calci và magné ở Yên Bái, Sơn La.
* Loại suối clorure natri, sulfure calci và magné ở Sơn La và Ninh Bình.
* Loại suối sulfure hydro và natri ở Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu.
* Loại suối bicarbonate calci ở Lào Kay, Sơn La, Hòa Bình, Thừa Thiên, và miền Nam Trung phần.
* Loại suối carbonate natri như suối Vĩnh Hảo, sông Châu Cát ở Bình Thuận
V/ BÌNH NGUYÊN:
1. Bình nguyên châu thổ Hồng Hà – Thái Bình, rộng khoảng 15.000km12, có hình tam giác, đỉnh ở Việt Trì, Phú Thọ, đáy là duyên hải từ Hòn Gai đến Phát Diệm. Bình nguyên này tương đối phẳng, ngoại trừ những đồi sót trong vùng Ninh Bình, Nam Định, và những vùng đất trũng tạo thành những bãi sậy ở khoảng giữa tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Về phía bờ biển thuộc các tỉnh Thái Bình, Nam Định, nhiều dải đất do phù sa bồi đắp lấn dần ra biển đến 80 thước một năm.
Bình nguyên châu thổ Hồng Hà – Thái Bình có một hệ thống đê điều ngăn nước, nhất là dọc sông Hồng, có đê được xây từ đời nhà Lý để tránh lụt lội mùa nước lũ, nhưng chính việc ngăn nước cũng làm đồng bằng mất đi lượng phù sa màu mỡ. Bình nguyên này sản xuất nông phẩm chính là lúa và các phụ sản khoai, bắp, sắn….
2. Bình nguyên Thanh-Nghệ-Tĩnh, rộng khoảng 6.000km2, gồm châu thổ sông Mã tương đối phì nhiêu và châu thổ sông Cả, hẹp và không được màu mỡ lắm, lại có nhiều cồn cát ven biển di chuyển vào lấn đất đồng bằng.
3. Bình nguyên Bình-Trị-Thiên, có diện tích tổng cộng khoảng 2.000km2, gồm các châu thổ Đài Giang, Thạch Hãn và sông Hương, thường khô cằn và hẹp vì bị giới hạn bởi những đầm nước mặn dọc duyên hải. Nông dân phải trồng phi lao để chặn sức di chuyển của những cồn cát ven biển về phía đồng bằng.
4. Bình nguyên Quảng Nam vào tới Bình Thuận, gồm châu thổ các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Đà Rằng, sông Cái, sông Dinh, sông Lũy,… quan trọng nhất là bình nguyên Tuy Hòa. Đồng bằng Ninh Thuận và Bình Thuận tương đối có đất tốt nhưng khô nên ít thuận tiện cho nông nghiệp.
5. Bình nguyên châu thổ sông Đồng Nai, tương đối cao ở vùng chuyển tiếp với các cao nguyên phía Đông-Bắc, thấp dần về hướng Tây-Nam. Đất đai tốt, thích hợp cho các loại cây kỹ nghệ, cây ăn trái.
6. Bình nguyên châu thổ sông Cửu Long, là vùng đồng bằng rộng nhất Việt Nam, đất đai phì nhiêu, bằng phẳng. Trong bình nguyên này vẫn còn một vài núi đá thấp thuộc vùng tiếp giáp với các dãy núi của Cambodia trong tỉnh Châu Đốc (An Giang), một vùng trũng thấp là Đồng Tháp Mười thuộc hai tỉnh Kiến Tường (Long An) và Kiến Phong (Đồng Tháp), hai vùng đất ven biển chưa được bồi đắp là khu rừng sát Quảng Xuyên ở cửa sông Đồng Nai và khu rừng tràm U Minh ở gần ranh tỉnh Kiên Giang và An Xuyên (Cà Mau). Đồng bằng châu thổ Cửu Long không có hệ thống đê ngăn nước như của châu thổ sông Hồng, nhưng lại có nhiều giồng đất thiên nhiên và một hệ thống kinh đào dẫn thủy quy mô, phân bố lượng phù sa bồi đắp của sông Cửu Long đều khắp nên rất phì nhiêu màu mỡ. Nông phẩm chính là lúa và các loại mễ cốc, cây ăn trái. Đây là vựa lúa của Việt Nam, đã từng xuất cảng gạo thóc từ những năm người dân tự do canh tác.
VI/ THẢO MỘC:
Do ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, thảo mộc thiên nhiên ở Việt Nam rất phong phú, có trên 1.500 sắc cây khác nhau. Rừng Việt Nam tương đối cũng phức tạp, không thuần nhất, ngoại trừ những khu rừng thông trên cao nguyên Lâm Viên và những khu rừng tràm rừng sát ở các miền đất trũng. Rừng Việt Nam cung cấp nhiều gỗ quý và gỗ thông dụng cũng như dược thảo.
* Rừng sát, gồm những loại cây đước, vẹt, mắm, bần, chàm, dừa nước… có nhiều rễ, có thể sống ở vùng nước mặn và có công dụng giữ phù sa cho các vùng đất tân bồi. Những khu rừng sát nằm dọc duyên hải Việt Nam, thuộc các tỉnh Nam Định, Phước Tuy (nay là Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Bình, Ba Xuyên (Hậu Giang), Kiên Giang. Các loại cây này thường dùng vào việc làm than củi, cất nhà, nhuộm vải, thuộc da, trét ván thuyền.
* Rừng tràm, gồm những loại cây sống ở vùng nước phèn như tràm, móp. ráng, choại…, cao hơn các loại cây rừng sát, có cùng công dụng và tìm thấy nhiều nhất là ở vùng U Minh trên ranh giới các tỉnh Kiên Giang, Chương Thiện, (Hậu Giang) An Xuyên (Cà Mau). Lá tràm còn được dùng để cất chế thành dầu khuynh diệp.
* Rừng già, còn gọi là rừng sơ cấp, chưa được khai thác, có nhiều loại cây đại thụ, dây leo và các loại dã thú. Rừng rậm Việt Nam tập trung ở các miền núi Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, trong rặng Hoàng Liên Sơn, vùng núi Thanh Nghệ, vài khu trên rặng Trường Sơn, có nhiều loại danh mộc như lim, gụ, sao, trắc, giẻ, nghiến, vàng tâm, huỳnh đàn, cẩm lai…
* Rừng thưa, còn gọi là rừng thứ cấp, đã được khai thác hay tàn phá làm nương rẫy. Tùy theo điều kiện thiên nhiên, các khu rừng này cũng có nhiều danh mộc như dầu, sến, bằng lăng, dầu rái, giáng hương, gõ đỏ, căm xe… và những loại thú dữ. Các khu rừng thưa nằm dọc biên giới Hoa-Việt, trong tỉnh Lai Châu, và nhiều nơi dọc theo rặng Trường Sơn.
* Rừng thuần nhất: Rừng thông ở các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Yên, và nhất là Tuyên Đức. Rừng gồi ở Phú Thọ, Tuyên Quang, Phan Thiết. Rừng tre ở vùng biên giới Hoa-Việt, Phú Thọ, Bình Dương. Rừng phi lao, dọc duyên hải Thanh Nghệ, Bình Trị.
VII/ KHÍ HẬU:
Việt Nam ở trong vùng nhiệt đới nên nói chung, khí hậu ẩm và nhiều mưa. Tuy nhiên, nhờ có biển bao quanh nên tương đối không nóng hay lạnh gắt. Cũng vì địa thế trải dài hơn 1.600km và rặng Trường Sơn nằm dọc chắn gió nên khí hậu cũng có dị biệt theo từng địa phương. Một cách tổng quát, khí hậu Việt Nam có những đặc tính đáng kể như sau:
* Nhiệt độ giảm dần từ Nam ra Bắc và từ đồng bằng lên miền cao. Nhiệt độ trung bình ở miền Nam là 27 độ C, miền Trung 25 độ C, miền Bắc 23 độ C. Gần như cùng trên một vĩ tuyến thì nhiệt độ trung bình của Nha Trang là 26 độ C, trong khi Đà Lạt 18 độ C.
* Việt Nam nằm trong vùng Á Châu gió mùa: Gió bấc (Đông Bắc), từ tháng 10 đến tháng 3 Dương lịch, mưa nhiều trên vùng duyên hải miền Trung từ Hà Tĩnh đến Ninh Thuận. Gió nồm (Tây Nam), từ tháng 5 đến tháng 9, mưa nhiều trên phần lãnh thổ còn lại. Gió Lào thổi những luồng hơi nóng từ lục địa ra biển trong cùng mùa với gió nồm, rất khô. Vũ lượng trung bình hàng tháng và trung bình khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam là 150 m/m. Nơi có vũ lượng cao nhất nước là vùng núi và cao nguyên phía Tây Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và phía Bắc Kontum, lên đến 4m nước mưa mỗi năm.
* Thời tiết miền Bắc chia làm bốn mùa rõ rệt, đôi khi có tuyết trên những đỉnh núi cao. Miền Trung và Nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Dọc duyên hải từ Quy Nhơn ra Bắc chịu nhiều cơn bão từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm.
VIII/ DÂN CƯ:
Dân số Việt Nam tăng khá nhanh. Từ đầu thế kỷ thứ XX, dân số nước ta khoảng 19 triệu người. Đến giữa thế kỷ, lên đến 25 triệu người. Cuối năm 1988, dân số Việt Nam đã tăng lên tới 67 triệu người, mật độ trung bình là 202 người trên 1 km2.
Trong thực tế, dân cư Việt Nam phân phối không đồng đều, phần lớn đồng bào chúng ta tập trung ở những miền có nhiều tài nguyên thiên nhiên dễ khai thác và ở các đô thị, thành phố, các trung tâm kỹ nghệ…. Dân cư Việt Nam sống gắn bó với ruộng vườn, làng mạc nên tỷ số đồng bào ở nông thôn bao giờ cũng cao, ước lượng có thể lên tới 85% dân số.
Từ xưa, tổ chức hành chánh của nông thôn Việt Nam đã là những đơn vị sinh hoạt có tính cách tự trị và dân chủ. Căn bản của xã hội Việt Nam là gia đình, thôn xóm. Nhiều thôn xóm họp thành làng hay xã, chung quanh có lũy tre bao bọc, trong đó, người dân tự bầu lấy một ban Kỳ Mục hay Hương Chức, và sống với nhau theo một ước lệ tự trị. Đây là một hình thái sinh hoạt đặc biệt của văn minh Việt Nam. Hệ thống làng xã Việt Nam vẫn được giữ theo lề lối sinh hoạt xưa, phần đông dân chúng sống bằng nghề nông, đánh cá, chăn nuôi, trồng trọt, thủ công nghệ…. Dân cư vùng thành thị sống bằng các hoạt động thương mãi, công kỹ nghệ, công tư chức, và các nghề tự do.
Trên các miền thượng du và cao nguyên, đồng bào vẫn sống tụ hội trong những buôn làng: Đồng bào Thái quây quần trong miền Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Kay, Sơn La, Lai Châu. Đồng bào Nùng ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái. Đồng bào Mán ở vùng núi Ba Vì, Tam Đảo, Móng Cái. Đồng bào Mèo ở Hà Giang, Lào Kay, Lai Châu, Sơn La. Đồng bào Mường ở các tỉnh Sơn Tây, Hòa Bình, Ninh Bình, Hà Đông, Thanh Hóa. Đồng bào Gia Rai sống trên các cao nguyên Gia Lai Kontum, Pleiku, Daklak. Đồng bào Ra-Đê ở miền cao nguyên ĐakLak, DakNông, Khánh Hòa, Phú Yên….
Trước khi đạo Ki-tô được truyền bá ở Việt Nam, hầu hết người Việt Nam theo đạo Phật, đạo Khổng và đạo Lão. Cho đến đầu thế kỷ thứ 20, ở Nam Phần có thêm hai tôn giáo mới là đạo Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Tựu trung, đối với người Việt Nam, việc thờ cúng ông bà Tổ Tiên là quan trọng hơn cả. Phong tục tập quán người Việt, dù qua một thời gian dài bị Bắc thuộc, vẫn giữ được những nét đặc thù Việt Nam, khác hẳn người Trung Hoa. Về tính tình, người Việt Nam thông minh, chăm chỉ, ham học hỏi, có óc khôi hài châm biếm, thích sống quần tụ, đặc biệt là rất can đảm và yêu nước nên lịch sử Việt Nam là một tranh đấu sử hào hùng./.