Ý nghĩa của tục lệ thắp hương


1. Khói hương trong tâm linh người Việt:

Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á Châu bất kể lứa tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Châu đều tin rằng nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Tuy nhiên về mặt tâm linh, có người vẫn còn hiểu một cách mơ hồ, nhất là về ý nghĩa dâng hương theo truyền thống của ông bà. Thậm chí ngày nay còn có một số người còn không biết vì sao trong nhà mình có một bàn thờ với những pho tượng, hình ảnh Chư Phật, Bồ Tát, Thần Thánh hoặc Tổ Tiên. Phải chăng có một “ông” Phật sống ở trên bàn thờ?

2. Định Nghĩa:

Dâng hương là gì?

Dâng có nghĩa là đưa lên một cách cung kính, tiếng Anh gọi là “offering”. Và chữ hương có nghĩa là mùi thơm, thông thường là một vật dùng đốt lên để cúng các đấng thiêng liêng, cũng được gọi là nhang và trầm, tiếng Anh là “incense”. Chữ incense bắt nguồn từ ngôn ngữ Latin, và động từ incendere – có nghĩa là thắp cháy lên.

3. Sự đặc biệt của nén hương đối với quê hương Việt Nam:

Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ tết. Ngày cuối năm đi mua sắm các thứ chuẩn bị cho ngày tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên thì mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương lúc này không còn là thứ hàng bình thường, mà nó đã trở thành một sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Mùi hương là mùi thơm quen thuộc trong nhà hằng triệu triệu người Á Châu, là mùi thơm đặc biệt của ngày đầu năm đi chùa lễ Phật. Chúng ta luôn bắt gặp những hình ảnh rất quen thuộc: những cụ ông, cụ bà, nam thanh, nữ tú, tay cầm hương khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang ninh… Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, mà là một nét đẹp văn hóa đã tồn tại từ rất lâu.

4. Lược sử về hình thức thắp hương:

Theo lịch sử ghi lại, việc thắp hương (đốt nhang) bắt nguồn từ khoảng năm 3700 BC [trước TL] – cách đây khoảng 5700 năm – từ nước Ấn Độ. Đến năm 618.AD vào đời nhà Tần mới có một vị Tăng đem hương trầm qua Trung Hoa, từ đó hình thức thắp hương phát triển mạnh mẽ và hưng thịnh nhất vào đời nhà Minh, sau đó được phổ biến đến khắp các nước láng giềng. Có thể nói hình thức thắp hương phổ biến nhất ở Nhật Bản, tại đây họ lại chế thêm nhiều cách thắp hương mà sản phẩm quen thuộc nhất là nén trầm hình tròn đầu nhọn vào thế kỷ 17, ngày nay vẫn còn dùng. Nhiều tài liệu cho thấy việc thắp hương đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ của vua chúa Ai Cập (Ancient Egypt) có rất nhiều những hình vẻ hoặc hình chạm trên tường mô tả nghi thức này.

Ngày nay việc thắp hương đã trở thành một tập quán trong các ngày lễ hội như ngày Tết; các ngày lễ Phật Đản rằm tháng tư; Vu Lan rằm tháng bảy; các ngày vía Phật, Bồ Tát; tế lễ tại đình, miếu; lễ húy Quốc Tổ, các anh hùng dân tộc; và những dịp quan trọng trong gia đình như cúng giỗ; tang ma; cưới hỏi, tân gia… hay cúng kính Phật Bà Quán Âm, Đức Mẹ Mary, Tổ Tiên Ông Bà, Tam Tiên Ông (Phúc-Lộc-Thọ); Thổ Địa; Thần Tài; Táo Quân v.v… và v.v…

5. Lợi ích và tác dụng của nén hương:

Từ ngàn xưa, khi mới khám phá ra lửa, con người đã bắt đầu phát hiện ra một điều lạ lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên sẽ tỏa ra mùi thơm đặc biệt tùy theo vật liệu dùng để đốt. Người ta đã biết dùng hương đèn để trị bệnh cho thân thể và cả bệnh tâm lý. Khi đốt hương đèn, khói hương nghi ngút tạo nên không khí thanh tịnh, ấm áp và trang nghiêm hoặc tạo không khí trong sạch trong những căn phòng lạnh lẻo của người qua đời hoặc lâm trọng bệnh.

Thông thường, người ta thắp nhang là để khẩn thiết cầu mong tấm lòng thành kính của mình sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng hoặc xông lên tận nơi ngự trị của một đấng Giáo Chủ, Thần Linh nào đó. Do vậy trong kinh Phật có bài kệ:

Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương. 

Phảng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo… 

6. Thắp hương mấy nén?

Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) lúc thắp hương, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa. Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau, đó có thể là:

– Tam Bảo (Phật – Pháp – Tăng).

– Tam giới (Dục giới – Sắc giới – Vô Sắc giới).

– Tam vô lậu học (Giới – Định – Tuệ).

– Tam thời (Quá khứ – Hiện tại – Vị lai).

Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp hương để nhớ nghĩ đến sự vô thường. Vô thường là từ Hán-Việt, tức là không vĩnh viễn – tất cả đều giả tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt cháy, ngắn ngủi vô thường như thời gian của nén hương… tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian trôi qua, uổng phí tháng ngày.

7. Ý nghĩa dâng hương trong nhà Phật và các tôn giáo khác:

Trong nghi lễ Phật Giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng (dâng lục cúng), gồm có: Hương; hoa; đăng; trà; quả, thực (nhang, bông, đèn, trà, trái cây, thức ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa. Không lẽ Phật sẽ lên trên bàn thờ mà ăn từng trái táo, uống từng chung trà sao?

Theo quan niệm của Phật Giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá, heo gà linh đình… vì đúng ý nghĩa sự cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm của tất cả con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén “Tâm hương” – tức là hương từ trong tâm. Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng dường chư Phật: Giới hương; Định hương; Tuệ hương; Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương. 

Không chỉ Phật Giáo, mà cả các tôn giáo khác như Thiên Chúa Giáo cũng dùng hương trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa Giáo xông hương trong các Thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình Thánh, rượu Thánh và cả linh cửu của người đã mất… Trước thời Chúa Jésus, những hương liệu như loại trầm frankincense có giá trị hơn cả vàng bạc châu báu. Đó là vì cổ nhân tin rằng những loài cỏ cây thơm là do chư Thiên ban cho từ trên cao và đã thấm nhuần hương thơm của Đức Chúa Trời.

Có tài liệu ghi rằng, khi Chúa Jésus giáng sinh, có ba vị vua đem ba thứ châu báu quý nhất trong nước thời đó để dâng lên cho ngài: Đó là vàng, hương trầm và dầu thơm đặc biệt từ rễ cây Myrrh. Điều này chứng tỏ hương trầm từ xa xưa vốn đã được xem như một vật quý giá thiêng liêng. Khói hương hòa vào không khí khiến cho không gian vạn vật xung quanh đều được thơm ngát, ví như tâm hành “Tùy thuận chúng sinh” của các bậc Bồ Tát vậy.

Những tôn giáo khác như Ấn Độ giáo (Hinduism) thì lại dùng hương để thư giản và tập trung hơi thở lúc ngồi Thiền. Trong khi đó, đạo Phù Thủy (Wiccanism) dùng hương để trở về với sức sống thiên nhiên để cảm thông với các vị nữ thần như Aphrodite. Trái lại, theo đạo Khổng (Confucianism) thì khói hương tượng trưng cho Đại Trượng Phu, chỉ bay lên chứ không bao giờ lặn xuống.

Hương không có màu sắc nhưng luôn thơm ngát, như câu “Tự tại trong hành xứ, như chim giữa hư không, tìm dấu chân không thấy”. Như mùi hương vô sắc phảng phất thơm lừng, bậc tĩnh lặng sống tự tại giữa đời, đem lại an lạc và lợi ích cho đời nhưng không lưu lại một dấu tích danh sắc nào trên bia ký. Rời khỏi cuộc đời, có chăng chỉ là một khoảng không gian ngát hương: mùi hương của loại hương bay ngược chiều gió!

Ở nhiều vùng thuộc Nam Bộ, người ta còn thắp hương cho từng gốc cây, góc nhà với quan niệm mọi vật đều có đời sống tâm linh của nó, cũng như là để các Thần Thánh, hoặc Vong Linh, Hương Linh hút vào sức lực để hiển linh.

Một điều chúng ta phải cần ghi nhớ là mỗi lần dâng hương trước bàn thờ: không những dâng hương bằng tấm lòng thành kính của mình, mà còn phải có chánh niệm, tiếng Anh gọi concentration (sự tập trung). Nên cắm từng nén hương với hai tay và cắm cho ngay thẳng, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng, mặc cho bão táp phong ba không hề dời đổi, giữ nguyên phong cách của ngừời quân tử có tấm lòng trong sạch để lưu lại tiếng thơm với đời tỏa khắp nơi nơi…

Hương trầm – Sợi dây nối kết với thế giới tâm linh:

Cũng như một số vật dụng khác, tưởng chừng rất nhỏ bé, nhưng không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta. Hương trầm cũng là một thứ nằm trong số đó, nhất là trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam dù đang sống tại quê hương hay ở nơi xa xứ trên đất khách quê người.

Hương là thứ mà nhà nào cũng thường dùng. Trong những ngày giỗ, tết hay lễ hội; ngày mùng một, ngày rằm (ngày sóc, vọng) hàng tháng nó không thể thiếu được. Nhưng rất ít người trong chúng ta quan tâm tìm hiểu về nguồn gốc nén hương đó có từ đâu, bao giờ và làm như thế nào, bằng gì? Chúng ta hãy thử cùng nhau làm cuộc tìm hiểu nhỏ về nén hương nhỏ bé ấy.

Cụ Đức Ngọc (tiệm hương Đồng Tiến – số 10, Hàng Khoai, Hà Nội) nay tuy đã quá tuổi “cổ lai hy” nhưng cụ vẫn rất khoẻ mạnh và tinh nhanh, cho biết: Cụ là hậu duệ thứ 7 trong gia đình truyền thống làm hương gốc ở làng Cao Thôn, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên mà ngày xưa thường gọi là làng Đông Lỗ. Qua cụ Đức Ngọc và một số tư liệu được biết, nghề làm hương ở nước ta có từ rất lâu rồi – khoảng 2000 năm – từ thời Hai Bà Trưng, nhưng thời đó chỉ có loại hương đen. Hương đen được làm từ một loại nhựa, gọi là nhựa trám mua ở vùng miền núi phía bắc như Phú Thọ, Thái Nguyên… Nhựa trám được trộn với bột than, sau khi tán mịn tạo thành thứ bột dẻo quánh, màu đen. Mỗi khi xe hương người ta véo một ít khoảng ngón tay cái rồi vê vào tăm tre và lăn cho tròn. Loại hương đen này khi thắp lên có mùi hơi hắc, ngai ngái. Nó xuất xứ ở xã Xà Kiều, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Còn loại hương trầm nén, hương vòng như ngày nay thường dùng có nguồn gốc tại quê của cụ là làng Cao Thôn, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Cụ Đức Ngọc cho biết: Ở làng cụ ngày xưa có cụ bà tên là Đào Thị Khương, lúc sinh thời cụ lấy chồng người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, rồi về ở quê chồng bên Phúc Kiến. Tại quê chồng cụ theo nghề nhà chồng làm hương. Sau khi chồng mất, buồn thương chồng và nhớ nhà, cụ trở về Việt Nam thăm quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn. Lúc này tại quê nhà thấy bà con họ hàng nghèo túng vì lúc đó không có nghề phụ gì ngoài nghề nông, khi nông nhàn thì ngồi chơi chẳng có việc làm. Thấy vậy cụ dạy cho bà con họ hàng ở quê nghề làm hương trầm. Từ đó nghề hương trầm xuất hiện ở Việt Nam. Và cũng từ đó cuộc sống của người dân trong làng cũng dần một khấm khá lên, làng xóm đông vui sầm uất hơn. Để tưởng nhớ công ơn của cụ, cụ tổ nghề hương trầm người khai sinh ra nghề hương trầm ở Việt Nam, hàng năm cứ đến ngày 21 tháng 8 âm lịch, mọi người lại trở về quê làm lễ giỗ tổ nghề.

Để làm ra được nén hương trầm trông đơn giản là vậy nhưng quả là cũng lắm gian truân và nhiều công phu. Hoá ra, cái mùi hương dìu dịu, man mát mang đến cho lòng người cảm giác linh thiêng và thành kính ấy được làm ra từ rất nhiều vị, chủ yếu là thuốc bắc (kiểu làm hương thời trước). Công việc ấy tưởng chừng rất đơn giản, thậm chí nhiều người còn cho rằng chỉ cần một ít mùn cưa và trầm là làm được, nhưng không phải vậy. Để hoàn thành được những công đoạn này không phải là dễ. Gần 60 nguyên phụ liệu cho một nén hương chủ yếu là những vị thuốc bắc như: Tùng, trắc, quy đầu, bạch chỉ, hắc hương, hoa hồi, quế chi, cam thảo và hàng chục vị khác nữa. Tất cả được đem xay nhỏ thành bột riêng từng loại rồi pha trộn chúng từng thứ theo công thức nhất định. Công việc làm ra một sản phẩm hương trầm khá tỉ mỉ và phức tạp. Nếu ai không có lòng kiên nhẫn, không yêu nghề thì không làm được. Để có được nén hương thơm, nguyên liệu phải chọn loại thật tốt sau đó các vị thuốc được đem xay nhỏ mịn, khi cân đong phải thật chính xác, đúng tỉ lệ. Ngay cả khi trộn bột, nước cũng phải đong chính xác. Sau khi bột hương được trộn nhuyễn, mà phải trộn trong chậu sành, dưới bàn tay khéo léo, thoăn thoắt của người thợ, nén hương được hình thành. Công đoạn cuối cùng là lăn que hương vào một thứ bột, trong nghề gọi là bột xoa. Lúc này những nén hương không bị dính vào nhau nữa và được đem đi phơi. Hương được phơi khắp sân, sắc vàng rực rỡ. Hương được bó chân lại với nhau từng bó lớn, thân xoè ra phơi nắng, màu vàng sáng trông tựa như những bông cúc đại đoá thật đẹp mắt. Còn hương vòng thì công đoạn sản xuất phức tạp hơn nhiều.

Còn lý do tại sao không đưa máy móc vào sản xuất, những nhà làm hương chuyên nghiệp gia truyền cho biết: Hương làm bằng máy bị ép chặt cháy rất lâu, tụng hết bài kinh mà hương vẫn chưa cháy hết là không được, vả lại độ thơm cũng bị giảm đi và khói nhiều. Hương làm bằng máy chỉ dùng cho hương muỗi (nhang muỗi). Họ cho rằng, giữa thời buổi kinh tế thị trường, hàng ngoại tràn ngập nhiều loại hương nước hoa hoá chất hay hàng giả bày bán la liệt, nhưng những loại hương này vừa không tốt cho môi trường; vừa thơm mùi thơm trần tục, không có mùi thơm tự nhiên, không trong sạch và thoát tục nên nhà nghề truyền thống không chịu sản xuất, vì theo họ, nén hương biểu tượng cho tấm lòng thành kính của những người đang sống với thế hệ đã khuất; tượng trưng cho sự biết ơn của thế hệ trẻ với thế hệ cha anh đi trước; nén hương là sợi dây liên lạc giữa người đang sống với thế giới tâm linh…

Sưu tầm của Minh Đạt (Facebook/Trau Dồi Phật Pháp). QuangMai  biên tập lại & nhuận sắc.

Source: www.kenhsinhvien.net/@forum

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.