TVGĐPT – Trên website này, Thư Viện GĐPT đã đăng tải 3 bộ hình “Cuộc đời Đức Phật Thích Ca” khác nhau (gồm bộ 13 hình, bộ 35 hình và bộ 108 hình) mà Quý bạn đọc đã thưởng lãm. Nay sưu tập được bộ hình này gồm 64 bức tranh[*] vẽ khá đẹp và sống động (kèm theo chú thích) của các họa sỹ Phật tử nước bạn Myanmar[**] – Xin tiếp tục chia xẻ cùng độc giả và xin độc giả hoan hỷ vì là tranh ảnh sưu tầm trên mạng, nên dù trên tranh có chữ ký mà Thư Viện GĐPT chưa tìm được phương danh tác giả cũng như xuất xứ gốc…
[*] Nhiều bài đăng khác chỉ có 61 bức, không có các bức ma nữ, ngạ quỷ & bức cuối cùng: Ngài Ca-diếp kết tập kinh tạng.
[**] Lại có tài liệu ghi là của họa sỹ Phật giáo Thailand.
———oOo———
Các hàng Chư Thiên cung thỉnh Bồ-tát từ giã cõi trời Tusita (Đâu-xuất) xuống trần.Nhận lời thỉnh mời, Ngài rời thiên cung, giáng trần tại thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong dòng vương tộc Sakya (Thích-ca).Lúc đản sanh từ lòng mẹ, Ngài bước đi bảy bước, chân nở bảy đóa sen.Đạo sĩ Asita (A-tư-đà) thấy sắc tướng của bậc đại nhân bèn đảnh lễ.Cả 8 thầy Bà-la-môn đều xin đặt tên là Siddhartha (Tất-đạt-đa) – nghĩa là thành tựu.Thuở thiếu thời, Ngài từng đắc Sơ thiền khi ngồi dưới gốc cây mận trong buổi lễ Hạ Điền.Trổ tài thiện nghệ giương cung, tiếng dây bật vang lừng khắp thành đô.Thái tử Siddhartha làm lễ thành hôn với Công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la) của kinh thành Devadaha (Đề-bà-đa-ha).Khi đi dạo khắp kinh thành, Ngài thấy 4 điềm thiên sứ hiện là: già, bệnh, chết và Sa-môn.Đang tắm ở hồ sen, quân hầu đến tâu cho biết là Công chúa Yasodhara đã sinh hạ thái tử.Tỉnh ngủ giữa đên khuya, Ngài thấy hình ảnh các cung nữ bèn nảy sinh sự nhàm chán và xả ly.Trong đêm, Ngài đến thăm Công chúa Yasodhara và con trai Rahula (La-hầu-la). Ngài quyết định xuất gia tầm đạo giải thoát, độ tận chúng sanh.Ma vương Vassavati (Ba Tuần) đến cản ngăn và bảo rằng chỉ còn 7 ngày là Ngài sẽ được cai trị quốc độ, nhưng sự ngăn cản không được kết quả gì.Bên dòng sông Anoma (A-nô-ma), Ngài dùng gươm cắt tóc và nguyện xuất gia tầm đạo.Cho người hầu Channa (Xa-nặc) đem gươm và ngựa Kanthaka (Kiền-trắc) trở về kinh thành báo cho đức vua Suddodhana (Tịnh Phạn) biết chuyện.Channa xin được xuất gia luôn nhưng không được cho phép. Ngựa Kanthaka thấy Ngài không lay chuyển, bịn rịn rơi nước mắt…Ngài đi qua thành Rajagaha (Vương-xá), dân chúng thấy dáng Đại nhân tướng, bàn tán xôn xao khắp nơi.Đức vua Bimbisara (Tần-bà-sa) ngự đến thưa rằng, nếu Ngài chứng đạo thì xin về độ cho mình trước tiên.Học tập với Đạo sĩ A-la-ra (A-la-la) đến hết khả năng của thầy nhưng vẫn chưa phải là con đường giác ngộ nên Ngài từ giã ra đi.Ngự đến tu viện của Đạo sĩ Udaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất), Ngài vẫn chưa thấy được ánh sáng giải thoát.Ngài ngự đến thôn Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa), một nơi an lành mát mẻ với dòng sông trong vắt chảy qua và có nhóm anh em Kondanna (Kiều-trần-như) đến cùng tu học.Ngài bắt đầu hành pháp khổ hạnh, nhịn ăn, nín thở… Chư Thiên đem vật thực cõi trời đến dâng nhằm bảo toàn tính mạng cho Ngài.Năm anh em Kondanna hầu cận Ngài lúc hành pháp khổ hạnh, Chư Thiên bèn gảy đàn 3 dây để nhắc nhở: “Ngài không nên hành pháp cực đoan”.Vào ngày Đại Giác Ngộ, có bà Sujata (Tu-xà-đề) dâng sữa vì nghĩ rằng Ngài là một vị Thọ thần.Ngài thả mâm vàng và nguyện rằng sắp tới nếu đạt quả Vô Thượng Bồ-đề thì mâm sẽ trôi ngược dòng.Mâm trôi một đoạn rồi chìm xuống đáy nước đụng phải ba cái mâm trước đó. Việc này làm cho rồng chúa thức giấc và biết rằng có thêm một vị Phật vừa mới giác ngộ.Ma vương dẫn đạo quân đến giao chiến, Nữ thần Đất Đai vuốt tóc biến thành đại dương, cuối cùng Ma vương bại trận.Ngài đại ngộ thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào ngày mồng Tám tháng Mười Hai.Ngự đến cội cây bồ-đề, có 3 nàng Ma nữ là con gái Ma vương đến quyến rũ, dụ dỗ nhưng Ngài chẳng ngó ngàng gì.Dưới cội bồ-đề, trời đổ mưa dữ dội, có rắn chúa đến cuộn quanh và bành mang che đỡ mưa gió cho Ngài.Hai thương gia đến dâng cơm cho Ngài và xin quy y, trở thành hai Cư sĩ đầu tiên.Ngài trầm ngâm ưu tư trong việc truyền bá Giáo pháp, nhưng Phạm Thiên Sahampati cung thỉnh Ngài thuyết pháp độ sanh.Ngài nghĩ đến chúng sanh cũng như bốn loại hoa sen.Khi ngự hành để độ cho 5 anh em Kondanna, Ngài gặp ngoại đạo Upakajivaka giữa đường.Thuyết pháp lần đầu tiên Kinh Chuyển Pháp Luân giúp cho Ngài Kondanna (Kiều-trần-như) đắc Pháp Nhãn.Trưởng giả Yasa (Da-xá) chán chường gia cảnh đi vào rừng gặp Đức Phật, được nghe pháp, đắc quả Arahanta (A-la-hán) xuất gia thành Bhikkhu (Tỳ-khưu).Bên dòng sông Neranjara (Ni-liên-thuyền), Đức Phật gặp Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) và đồ chúng là những người theo đạo thờ lửa.Ngài xin nghỉ tại đền thờ lửa, rồng chúa ở đó bèn phun khí độc làm hại, Ngài dùng thần thông áp đảo và bắt nhốt vào bình bát.Thủy tai hoành hành, nước lụt ngập tràn nhưng không đến được chỗ Ngài ngự, các tu sĩ phái ‘bện tóc’ thấy điều kỳ diệu bèn xin xuất gia theo.Đức vua Bimbisara (Tần-bà-sa) làm phước hồi hướng đến bà con quyến thuộc đã quá vãng là những ngạ quỷ. Những ngạ quỷ này tùy hỷ nhận phần phước.Ngài Moggallana (Mục-kiền-liên) và Ngài Sariputta (Xá-lợi-phất) đến xin xuất gia, về sau đắc quả A-la-hán, trở thành nhị vị thượng thủ đệ tử phía tả và phía hữu.Đức Phật truyền dạy Ovada-patimokkha (Giải thoát giáo) đến 1.250 vị Thánh tăng A-la-hán vào đêm Rằm tháng Giêng.Vua cha hay tin, đến trách cứ rằng điều đó (xuất gia) trái với truyền thống của dòng dõi vua chúa, và cung thỉnh Ngài trở về triều kế vị và vui hưởng lạc thú.Công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la) khóc than tâm sự khi Ngài về thăm Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).Đức Phật giao cho Sariputta (Xá-lợi-phất) làm thầy, tế độ cho hoàng nhi Rhula (La-hầu-la) xuất gia làm vị Sàmanera (Sa-di) đầu tiên trong Giáo đoàn.Bằng trí huệ, Ngài quán xét chúng sanh và thấy Angulimala (Ương-câu-lê-ma-la) sẽ giết mẹ rồi bị đọa vào A-tỳ địa ngục.Angulimala đuổi theo Đức Phật nhưng chẳng kịp, bèn gọi Ngài hãy dừng lại. Ngày dạy: “Ta đã dừng rồi, còn ngươi chưa chịu dừng”.Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) biểu diễn thần thông cho Thái tử Ajatasattu (A-xà-thế) – con vua Bimbisara – nảy sinh đức tin nhằm hy vọng Thái tử bằng lòng theo kế hoạch xấu xa của mình.Devadatta cho thợ săn đến sát hại Đức Phật, nhưng khi gặp Ngài lại nảy sinh đức tin trong sạch và buông vũ khí, nghe pháp, đắc đạo.Devadatta biết lỗi, buồn rầu đến độ hộc máu, muốn được sám hối, nhưng cuối cùng đã bị đất rút xuống hỏa ngục trước khi được gặp Đức Phật.Thần y Jivaka Komarabhacca (Kỳ-bà), bác sĩ thường trực của Đức Phật, chế thuốc chữa cho Ngài đến lúc khỏi bệnh.Đức Phật cho phép Tỳ-khưu được mặc y do thí chủ dâng cúng, không nhất thiết chỉ mặc một loại y pamsukula (phấn tảo y), theo lời thỉnh cầu của Thần y Jivaka.Ngài ngăn cản không cho hai phía bà con bên Ngoại và bên Nội tranh giành nhau sử dụng nước từ con sông Rohini (Rô-hi-ni) chảy qua.Ngài đến viếng thăm vua cha đang lâm trọng bệnh, thuyết pháp tiếp độ. Cuối cùng phụ hoàng đắc quả A-la-hán và nhập diệt.Hiển lộ song thần thông uy hiếp trước chúng ngoại đạo bằng cách trồng hạt xoài và tưới bằng nước rửa tay, chốc lát cây xoài mọc lên rất nhanh.Ngài hiện thân lên Cung trời Tavatimsa (Đao-lợi) nhập Hạ, thuyết tạng Vi Diệu Pháp độ mẫu thân Maya (Ma-da).Lần nọ, khi Ngài nhập Hạ một mình, có voi chúa và khỉ chúa hộ độ tại rừng Pailaya.Ngài Ananda (A-nan) thỉnh cầu Đức Phật tiếp tục trụ thế độ sinh, nhưng Ngài dạy rằng đã quyết ba tháng sau sẽ nhập Đại Niết-bàn.Ngài nhận bữa ăn cuối cùng từ ông Cunda (Thuần-đà), căn dặn phần còn lại đem chôn đi.Ngự hành đến thành Kusinara (Câu-thi-na), Ngài lâm bệnh nặng, cho thị giả Ananda múc nước uống đỡ khát.Truyền cho Ngài Ananda chuẩn bị chỗ nghỉ dưới hai cội cây sala đang trổ hoa thơm ngào ngạt. Ngài nằm nghiêng xuống, quyết không dậy nữa.Ngài Ananda dằn lòng không được, khóc lóc than vãn bên ngoài…Sau khi căn dặn chư Tăng Ni lấy Pháp và Luật làm thầy, Đức Phật nhập Đại Niết-bàn.Ngài Mahakassapa (Đại Ca-diếp) làm Thượng thủ tổ chức Chư Thánh Tăng kết tập Tam tạng tại thành Rajagaha (Vương-xá), tiếp nối thọ mạng Phật pháp cho đến ngày nay.