Hoa Vô Ưu: Truyền thuyết; Khoa học và Y dược

Cây Sala thường được dịch là cây Vô Ưu. Sala có nhiều tên gọi: Sala; Sal; Shorea Robusta; Ashoka; Asoka… Là một loài cây có  nguồn gốc từ Ấn Độ, miền Nam dãy núi Hymalaya. Sau này được trồng nhiều nơi ở Nam Á và  Đông Nam Á.

Trong kinh điển Phật Giáo, Đức Phật đản sinh ở gốc cây Sala, trong vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) và nhập diệt giữa hai cây Sala tại Kusinara (Câu Thi Na). Vì thế ngày nay, ngoài cây bồ đề (Bodhi tree, Bo tree, Ficua Religiosa). Cây Sala được chọn trồng ở các khuôn viên Chùa. Tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn có các mẫu cây Saraca indica, gọi là Vàng Anh lá nhỏ và Saraca chinensis (S. dives), gọi là Vàng Anh lá lớn. Trong giới chơi cây cảnh Việt Nam cây này còn có tên gọi là cây Ngọc Kỳ Lân, Đầu Lân hay Hàm Rồng.

Hoa Ashoka (Vô Ưu) là một trong loài những cây linh thiêng tại Ấn độ. Ashoka, theo Phạn ngữ, có nghĩa là không gây ra ưu phiền.

Vô Ưu qua Truyền thuyết – Tư tưởng:

Sách thần thoại Ấn giáo Ramayana ghi lại: Trong thời gian bị lưu đày tại Lanka, Seeta đã bị Ravana lưu giữ tại AsokaVana, môt vườn cây Asoka.

Vẻ đẹp của cây thường được liên kết với những phụ nữ trẻ, xinh đẹp và người Ấn tin rằng, cây sẽ trổ hoa khi được phụ nữ chạm đến. Trong ngày Lễ hội Dohada, các phụ nữ trang điểm rực rỡ được mời đến đá nhẹ hay chạm vào cây bằng chân trái để giúp cây mau trổ hoa. Hội Xuân Asoka-pushpa Prachaayika là dịp các thiếu nữ hái hoa Asoka để cài trên mái tóc.

Tín đồ Ấn Độ giáo rất quý trọng cây Vô Ưu, họ tin rằng cây là biểu tượng cho Tình Yêu, và là cây dâng tặng riêng cho Nữ Thần Tình Ái Kama Deva. Trong ngày Lễ hội Ashok Shasthi, phụ nữ Bengali thường ăn nụ hoa, và phụ nữ Hindi uống nước có ngâm hoa Vô Ưu với niềm tin rằng nhờ nước này họ sẽ bảo vệ được con cái. Người Ấn Độ còn gọi cây là Anganapriya, có nghĩa là, “thân thiết với phụ nữ”, cây hoa được xem là nhạy cảm với sắc đẹp. Hoa sẽ mau nở khi được phụ nữ đụng đến.

Theo Phật Giáo, hoa Vô Ưu giữ một vai trò khá quan trọng trong truyền thuyết về ngày sinh của Đức Phật: Tương truyền, năm 563(*) trước Tây Lịch, Hoàng hậu Maha Maya, khi đang mang thai, đã rời Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) để về quê sinh nở. Trong lúc ghé vườn Lubini (Lâm Tỳ Ni), bà đã hạ sinh Thái tử Siddhārtha (Tất Đạt Đa) trong khi môt tay đang vịn vào cành Vô Ưu. Ngày Phật Đản thường được tín đồ Phật Giáo trang hoàng bằng hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa ra đời nhân lúc thân mẫu giơ tay vịn cành Vô Ưu trong vườn Lâm Tỳ Ni. Vừa sinh ra ngài liền cất 7 bước đi trên 7 đóa hoa sen nở ra dưới mỗi bước chân ngài.

Một số nhà Phật học đã cho rằng Vô Ưu và Ưu Đàm, nếu xét về biểu tượng và ẩn dụ, chỉ là 2 tên gọi của một cây, nhưng thật ra về mặt thực vật thì đây là hai cây khác nhau. Kinh Vô Lượng Thọ – tập Thượng – cũng không phân biệt giữa Vô Ưu và Ưu Đàm khi ghi: “Hoa Vô Ưu vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy, giống như hoa linh thoại, đúng thời mới xuất hiện”.

Vô Ưu dưới mắt nhìn khoa học: (Theo tài liệu nghiên cứu của Dược sĩ Trần Việt Hưng).

  • Tên khoa học và các tên khác:

– Tên khoa học: Saraca asoca hay Jonesia Ashok thuộc họ thực vật Asalpinioidae.

– Tên Anh-Mỹ: Ashoka tree (Sorrowless tree); Sita-Ashok.

– Tên Ấn Độ: Asok; Asoka; Vanjulam.

  • Đặc tính thực vật:

Giống Saraca, nổi tiếng do cho những chùm hoa rực rỡ gồm 11 loài cây thuộc vùng Đông Nam Á. Cây có lẽ có nguồn gốc tại Ấn Độ, Miến Điện và Mã Lai. Nhóm Saraca được trồng để làm cây cảnh và để lấy hoa trưng bầy nơi các bàn thờ thần linh tại Á Châu. Tại Ấn Độ, cây mọc tự nhiên ở vùng Trung và Đông Himalaya, nơi cao độ lên đến 750m; tại các thung lũng Khasi, Garo va Lushai.

Cây Vô Ưu thuộc loại tiểu mộc, mọc tương đối chậm, cao từ 5 đến 20m,  cây cung cấp gỗ cứng. Thân không gai và nhẵn, màu nâu-xám. Cành phân nhánh nhiều tạo thành tán, gần như tròn. Lá kép hình lông chim chẵn, với từ 4 đến 6 cặp lá chét. Lá có dạng gần như ngọn giáo thuôn, tù hay nhọn ở đầu – tùy giống – tròn ở gốc, dài 15-20cm, rộng 5-7cm, màu lục sậm, mặt trên bóng, mặt dưới nhạt hơn. Lá non màu hơi tím, xếp lại và buông thõng xuống. Hoa màu đỏ-cam, vàng-cam, sau đó chuyển thành đỏ đậm, mọc thành ngù đặc ở nách lá. Quả thuộc loại quả đậu, màu đen, dài 9-25cm, rộng chừng 4cm, trong chứa từ 4 đến 8 hạt, hình cầu, chừng 35mm.

Cây trổ hoa quanh năm, nhưng trong các tháng 2 đến tháng 5, hoa có màu sắc rực rỡ nhất. Hoa có mùi thơm dịu, mùi thơm rất mạnh vào buổi chiều tối.

  • Thành phần hóa học:

– Vỏ thân chứa: Tannin (6%), Catechol, Tinh dầu, Heamatoxylin, Ketosterol, Các hợp chất loại Glycoside, saponin, hợp chất phức tạp chứa Calcium (C6H10O5Ca), chứa sắt. Các Glycosides loại Lignan: Lyoniside, Nudiposide, 5-methoxy-9-beta-xylopyranosyl (-) isolariciresinol, Icariside E3, Schizandriside. Các Flavonoids có hoạt tính chống oxy-hóa như  (-) epicatechin, epiafzelechin-> (4beta->8)-epicatechin, procyanidin B2.

– Hạt chứa: Lectin Saracin. (Theo Journal of Natural Medicine Số 61-2007).

  • Các nghiên cứu khoa học về Vô Ưu:

Dịch chiết bằng nước từ vỏ thân được ghi nhận là có chứa 2 hoạt chất: một có hoạt tính kích thích và một có hoạt tính làm thư giãn bắp thịt nơi ruột non của chuột bọ thử nghiệm. Hoạt chất cho thấy có thể kích thích bắp thịt tử cung, gây sự co thắt nhiều lần hơn và cơn co thắt kéo dài hơn.

Hoạt chất loại Glycoside, tinh khiết hóa, kết tinh cũng gây co bóp tử cung, có thể dùng trong các trường hợp xuất huyết tử cung (khi cần đến các Alkaloid của nấm Ergot). Ngoài ra hoạt chất này cũng hữu dụng trong các trường hợp xuất huyết nội mạc buồng trứng, rong kinh khi bị u tử cung, trĩ và kiết lỵ.

Trong vỏ cây, còn có một hợp chất phức tạp, gọi là Phenolic glyco side P2 có hoạt tính rất mạnh trên bắp thịt tử cung.

Dịch chiết bằng Alcohol từ vỏ có hoạt tính kháng sinh trên nhiều loại vi khuẩn. Nước trích từ hoa tuy cũng có tác dụng kháng khuẩn nhưng yếu hơn và giới hạn hơn. (Theo Canadian Journal of Microbiology Số 53-2007).

Nước chiết từ vỏ cũng giúp gia tăng thời gian sinh tồn cho chuột bị gây Carcinoma loại Ehrlich, và làm giảm khối lượng của bướu ung thư loại Sarcoma tumour line S-180. (Theo Indian Journal of Pharmaceutical Sciences Số 54-1992).

Lectin Saracin ly trích từ hạt quả Vô Ưu có hoạt tính kết dính chuyên biệt với N-acetyl-neuraminyl-N-acetyllactosamine. Saracin có hoạt tính tạo sự phân cắt nhân tế bào lympho nơi người. Saracin kích khởi sự bài tiết IL-2 của tế bào máu đơn nhân (người). Saracin có ái lực với các tế bào T loại CD8(+) hơn là với CD4(+) và được cho là có những hoạt tính điều hòa hoạt động của hệ Miễn Nhiễm. (Theo Archives of Biochemistry and Biophysics Số 371-1999).

  • Vô Ưu trong lĩnh vực Y – Dược:

Trong Y-Dược Ayurvedic (Ấn Độ – Pakistan), Vô Ưu được xem là một vị thuốc của phụ nữ, vị thuốc giúp phụ nữ giữ được “nữ tính”. Cây Asoka được cho là cây bảo vệ sự trong sạch cho phụ nữ.

Cây được dùng rất phổ biến tại Ấn Độ để trị các bệnh phụ khoa, đặc biệt là về tử cung. Cây được xem là có chứa các phytoestrogens, giúp cải thiện việc cơ thể phụ nữ sử dụng các kích thích tố.

– Để trị đau bụng, khó chịu: Đun vỏ cây Vô Ưu với sữa bò, thêm một chút đường, lọc qua vải thưa. Uống mỗi ngày với mật ong trong 21 ngày.

– Trị vết thương, đứt tay chân: Nghiền vỏ Asoca thành bột, trộn thành khối nhão. Hơ nóng khối nhão rồi đắp vào vết thương trong 2 ngày.

– Trị rối loạn kinh nguyệt, rong kinh: Nghiền chung vỏ Asoca, tiêu đen, trộn với nước vo gạo, uống với mật ong khi bụng đói, chỉ uống khi bắt đầu có kinh.

Tài liệu sử dụng:

  • Từ Điển Cây Thuốc Việt Nam (Võ văn Chi).
  • The A-Z of Garden Plants (Bay Books).
  • Medicinal Plants of India (S.K Jain & Rob. DeFilipps).
  • Scientific Basis for Ayurvedic Therapies (Lakshmi Mishra).

(Tài liệu nghiên cứu của Dược sĩ Trần Việt Hưng).

Phụ lục một bài viết khác về Hoa Vô Ưu:

HOA VÔ ƯU (Sala)

  • Loài thứ nhất: Hoa Vô Ưu – Sorrowless Flower.
  • Loài thứ hai: Hoa Vô Ưu – Tên gọi là Ưu Đàm Bạt La Hoa (Gọi tắt là Hoa Ưu Đàm).

– Phạn tự: Udumbara.

– Tên khoa học: Ficus Glomerata.

– Môi truờng sống: Dưới chân núi Hymalaya; cao nguyên Decan và đảo Srilanca.

– Đặc điểm: Thân cây cao trên 3 mét; lá có 2 loại; có hoa đực, hoa cái khác nhau: loại có đài hoa lớn thì như nắm tay, loại nhỏ bằng ngón tay cái, kết thành chùm hơn 10 hoa, mọc trên thân cây. Hoa ăn được nhưng vị không ngon.

Trong văn hóa Ấn Độ thường cho rằng hoa cây vô ưu là điềm lành. Theo truyền thuyết, Thái Tử Tất Đạt Ta sanh ra dưới cây A-du-ca trong vườn Lâm Tỳ Ni. Vì mẹ con được an ổn nên cây này được gọi là cây Vô Ưu.

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy, giống như hoa linh thọai, đúng thời mới xuất hiện”.

Loại hoa này do điềm lành linh dị chiêu cảm là loại thiên hoa, thế gian không có. Nếu Như Lai hạ sanh thì nhờ năng lực đại phước đức của Ngài mà chiêu cảm loại hoa này xuất hiện.

Vì loại hoa này ít có, khó gặp nên trong kinh Phật Giáo có rất nhiều chổ dùng hoa này ví dụ việc khó gặp Phật ra đời.

(Theo Joinesia Asoka Roxk)

Luận Vy sưu tầm

(*) Thư Viện GĐPT giữ nguyên cách tính năm sinh Đức Phật Thích Ca theo tài liệu của tác giả, Quý Bạn Đọc có thể tham khảo, tìm hiểu thêm nội dung này trong bài “Tìm hiểu ngày sinh của Đức Phật Thích Ca“.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.