Thử ôn lại các sự kiện những năm Sửu trong Việt sử

TVGĐPTNhân dịp sắp đón Xuân Tân Sửu 2021, tức đón năm Sửu – “năm con Trâu” trong “12 con giáp” theo truyền thống văn hoá Á Đông xưa và theo Việt lịch (âm lịch), Thư Viện GĐPT xin cất công sưu tập lại vài sự kiện nổi bật vào các năm Sửu (có thể chưa đầy đủ lắm) trong dòng sử Việt, để cống hiến Quý độc giả nhàn lãm trong những ngày đầu năm mới…

oOo

NĂM TÂN SỬU – 41: Hai Bà Trưng (Trưng Trắc – Trưng Nhị) xưng Vương tại đất Mê Linh sau khi cuộc khởi nghĩa thành công, lật đổ ách thống trị của nhà Đông Hán; giành lại nền tự chủ đất nước sau 150 năm Bắc thuộc; hình thành một quốc gia độc lập; thiết lập chế độ quân chủ nữ quyền đầu tiên ở Việt Nam; xây dựng thành quách để ngăn giặc Hán xâm lăng.

NĂM ẤT SỬU – 545: Lý Nam Đế lãnh đạo dân chúng tham gia kháng chiến chống lại sự xâm lược của nhà Lương; bảo vệ nền độc lập mới giành được của nước Vạn Xuân.

NĂM QUÝ SỬU – 713: Mai Thúc Loan – người châu Hoan (vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh) – nổi dậy lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cùng với hào kiệt và Nghĩa Quân chống sưu thuế, xoá bỏ ách đô hộ của nhà Đường thống trị An Nam Đô Hộ Phủ (tên nhà Đường đặt ra khi đô hộ nước Việt). Cuộc khởi nghĩa này được sử sách gọi là “Khởi Nghĩa Hoan Châu”, không những chỉ nổ ra trong nước mà còn được sự hưởng ứng của cả Lâm Ấp (Chăm-Pa) và Chân Lạp (Cao-Miên). Mai Thúc Loan thường được Nghĩa Quân và dân chúng gọi là Soái Trưởng Giao Châu, sau đó xưng Vương, hiệu là Mai Hắc Đế.

NĂM ẤT SỬU – 905: Khúc Thừa Dụ – một Hào Trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương) – nhân lúc nhà Đường suy vong, tự xưng là Tiết Độ Sứ, lãnh đạo dân chúng nổi dậy chống lại nhà Đường; chấm dứt ách thống trị hơn 1.000 năm của các triều đại phương Bắc; xây dựng chính quyền tự chủ cho đất nước; mở đầu thời đại phong kiến Việt Nam. Họ Khúc thành lập chính quyền từ trung ương đến địa phương, phân chia hệ thống hành chánh thành các Lộ, Phủ, Châu, Giáp, Xã; lập sổ hộ tịch; xóa bỏ các hình thức tô thuế, lao dịch của nhà Đường, chỉ còn đặt một loại thuế là thuế ruộng.

NĂM ẤT SỬU – 965: Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đi dẹp giặc ở Thái Bình bị loạn tên chết. Nhân triều Ngô mâu thuẫn và suy yếu, các lãnh chúa địa phương nổi lên cát cứ, đánh dẹp lẫn nhau gây nên “Loạn 12 Sứ Quân” tạo nên thời kỳ bất ổn, rối loạn cho đất nước và nhà Ngô cũng chấm dứt từ đây. (May rằng về sau có Vạn Thắng Vương Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên bờ cõi, giúp đất nước không bị lệ thuộc vào tay giặc Tàu).

NĂM TÂN SỬU – 1001: Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn dẹp yên được “giặc Cử Long” tại Thanh Hóa nhưng thời điểm bấy giờ Vệ Vương Ðinh Toàn lại bị tử trận. Triều đại nhà Ðinh cũng kết thúc sau đó.

NĂM KỶ SỬU – 1049: Vua Lý Thái Tông nằm mộng thấy “Phật Bà Quan Âm” dắt lên một tòa sen; khi tỉnh giấc bèn nhờ triều thần đoán mộng; sau đó nghe theo lời khuyên của Quốc Sư Thiền Tuệ xây một ngôi chùa giống như trong giấc mơ lấy tên là Diên Hựu ở Thăng Long Thành (Hà Nội), còn được biết đến ngày nay với tên Chùa Một Cột, một công trình kiến trúc độc đáo, biểu tượng của nền nghệ thuật quốc gia và tinh thần trọng đạo vào thời ấy.

NĂM QUÝ SỬU – 1073: Nguyên Phi Ỷ Lan – người đã từng được vua Lý Thánh Tông giao việc “giám quốc” trong lúc nhà vua chinh phạt Chiêm Thành (1069) – được ban phong Hoàng Thái Hậu.

NĂM ĐINH SỬU – 1097: Vua Lý Nhân Tông chỉ dụ cho cải cách, sửa chửa lại các phép tắc và định chế pháp quyền cũ, biên soạn thành một quyển mới gọi là “Hội Điển”, tạo nên những nét tiến bộ lớn về phương thức tổ chức triều chính và điều hành hệ thống chính trị, xã hội.

NĂM ẤT SỬU – 1145: Triều Lý dựng hai ngôi chùa thờ Phật là Diên Linh Phúc Thánh Tự và Sơn Cảnh Vĩnh Long Tự trên vùng đất Tổ (Phú Thọ).

NĂM QUÝ SỬU – 1253: Nhà Trần lập Quốc Học Viện tại kinh đô Thăng Long để giảng dạy các sách vở luân lý kinh điển Nho Giáo (Tứ Thư, Ngũ Kinh…); lập Giảng Võ Đường để huấn luyện võ nghệ cho quân sĩ và con cháu quan lại. Ngoài ra còn cho đắp các tượng Khổng Tử, Mạnh Tử, Chu Tử…

NĂM KỶ SỬU – 1289: Chính thức kết thúc cuộc chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt sau ba lần địch quân thất bại thảm hại trong các cuộc chinh phạt, xâm lược (1258, 1285, 1288). Bị quân Đại Việt làm phá sản tan tành kế hoạch xâm lăng của đạo quân hùng mạnh này trong cuộc chiến tranh lần thứ ba (từ tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288) đế quốc Nguyên-Mông đã buộc phải thừa nhận nền độc lập của Đại Việt.

NĂM ĐINH SỬU – 1397: Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền, hạn nô” (tháng 7/1937), phân chia lại ruộng đất giữa các tầng lớp xã hội; hạn chế đặc quyền đặc lợi của giới thượng lưu, địa chủ. Tháng 11 cùng năm này, Hồ Quý Ly bức vua Trần Thuận Tông xuống chiếu dời đô vào Thanh Hóa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, thủ đô được chuyển từ Thăng Long (Hà Nội) vào Tây Đô (Thanh Hoá).

NĂM QUÝ SỬU – 1433: Vua Lê Thái Tổ băng hà, Thái Tử Nguyên Long mới 11 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Thái Tông.

NĂM KỶ SỬU – 1469: Vua Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ quốc gia Ðại Việt, chia địa giới hành chánh thành 12 Thừa Tuyên với từng khu vực cụ thể, gồm: Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, An Bang, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn và Ninh Sơn. Đây là một bước tiến lớn trong việc quy hoạch, xác định và quản lý lãnh thổ.

NĂM TÂN SỬU – 1481: Vua Lê Thánh Tôn ban lệnh lập đồn điền khắp nơi trong nước để sản xuất lương thực và tạo việc làm cho quân sĩ trong thời bình. Vua cho lập 42 sở đồn điền trong cả nước, chia thành 3 bậc thượng, trung, hạ, với mục tiêu “dùng hết tiềm lực của nghề nông, mở rộng nguồn tích trữ”. Cùng năm này, triều đình cũng được lệnh lập bia đá tại Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long (Hà Nội) ghi tên các Tiến Sĩ trong nước từ khoa thi đầu tiên cho đến năm cuối cùng của nhà Hậu Lê là 124 khoa thi. (Từ năm 1802, khi triều nhà Nguyễn dời đô về Huế và lập Văn Miếu, dựng bia ghi tên Tiến Sĩ các khoa thi kế tiếp cho đến khi “nhà nước bảo hộ” Pháp bãi bỏ chế độ thi cử theo Nho Giáo vào đầu thập niên thế kỷ XX).

NĂM KỶ SỬU – 1529: Mạc Đăng Dung lui về làm Thái Thượng Hoàng sau 2 năm trị vì, truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh.

NĂM QUÝ SỬU – 1613: Nhiều quốc gia Tây Âu như Hà Lan, Anh, Pháp… bắt đầu đưa tàu thuyền vào các hải cảng nước ta tiếp xúc, giao lưu và trao đổi vật phẩm, buôn bán hàng hoá.

NĂM QUÝ SỬU – 1673: Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn buộc phải hoà hoãn Sau 45 năm nội chiến ác liệt gây khổ đau cho bao sinh linh. Hai bên lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến và cả hai bên đều nỗ lực đẩy mạnh tái thiết, chấn hưng lại đất nước.

NĂM ĐINH SỬU – 1697: Hoàn thành (khắc, in và công bố) bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (vào niên hiệu Chính Hòa thứ 18, đời Lê Hy Tông). Bộ Việt Sử vĩ đại này gồm 24 quyển ghi lại lịch sử nước ta từ năm Nhâm Tuất (2879 trước CN), thời Hồng Bàng (Hùng Vương), đến năm Ất Mão (niên hiệu Đức Nguyên thứ 2, đời Lê Gia Tông, 1675). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là kết quả biên khảo trải qua 3 triều đại Lý – Trần – Hậu Lê, kéo dài tới 570 năm, từ 1127 đến 1697 mới hoàn tất.

NĂM KỶ SỬU – 1829: Doanh Ðiền Sứ Nguyễn Công Trứ xúc tiến công cuộc khẩn hoang các vùng đất sình lầy ven biển, lập được hai Ấp là Kim Sơn và Tiền Hải (thuộc tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thái Bình).

NĂM TÂN SỬU – 1841: Vua Thiệu Trị nhà Nguyễn cho vẽ bản đồ lãnh thổ Việt Nam đầy đủ khắp các tỉnh để sử dụng vào các lãnh vực hành chánh dân sự và quân sự. Cùng năm, lệnh vua nghiêm cấm quan lại đi công cán đến các địa phương không được nhũng nhiễu, kinh động dân chúng và tham nhũng, hà lạm của công cũng như của dân. Cũng trong năm này, vua sắc chỉ thực hiện việc kiểm kê hành chánh trong toàn quốc về mọi mặt: dân số, quân số, điền địa, thuế khoá v.v… (Đợt kiểm kê này rất kịp thời và lưu lại những số liệu vô cùng giá trị. Nếu chậm trễ, lúc quân Pháp đã tràn vào, cục diện thay đổi, hầu như không thể thực hiện).

NĂM ẤT SỬU – 1865: Tờ báo quốc ngữ của Việt Nam đầu tiên ra mắt bạn đọc: Gia Định Báo – xuất bản tại Sài Gòn ngày 15 tháng 4 năm 1865. Triều Nguyễn mở khoa thi Tiến Sĩ Võ đầu tiên ngày 26 tháng 5; lập Nhà Thuỷ Học đào tạo người lái tàu thuyền đi biển vào tháng 11 cùng năm ấy.

NĂM TÂN SỬU – 1901: Phan Chu Trinh đậu Phó Bảng Tiến Sĩ, được triều đình Huế bổ làm Thừa Biện Bộ Lễ nhưng không bao lâu thì nhà chí sĩ này từ quan, dấn thân vào con đường cách mạng chống Pháp. Cùng khoa này còn có các ông Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn Sinh Sắc.

NĂM ẤT SỬU – 1925: Nguyễn Ái Quốc xuất bản “Bản án chế độ thực dân Pháp” ở Paris (Pháp); qua Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay.

NĂM ĐINH SỬU – 1937: Ðại tá Chofflet của Pháp – người chỉ huy trận đánh tiêu diệt quân Ðề Thám năm 1913 – đến tại Viện Viễn Ðông Bác Cổ (Hà Nội) xin trả lại cặp kiếm của Hoàng Hoa Thám vì nghe đâu bị oan hồn của người anh hùng đất Việt này cứ theo quấy nhiểu đòi đền mạng.

NĂM QUÝ SỬU – 1973: Hiệp Định đình chiến Paris được ký kết giữa các chính phủ: Việt Nam Cọng Hoà, Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến kéo dài kể từ ngày phân ranh đất nước theo Hiệp Định Gèneve năm 1954.

NĂM ẤT SỬU – 1985: Cuộc “đổi tiền” quy mô nhất trong lịch sử trên toàn lãnh thổ Việt Nam diễn ra từ ngày 14 đến ngày 19 tháng 9. Đây là lần đổi tiền thứ 6 kể từ lần “đổi tiền Đông Dương” (15/5/1947) của nhà đương cuộc hiện hành và là lần đổi tiền thứ 3 (22/9/1975, 3/5/1978, 14/9/1985) kể từ sau ngày 30/4/1975. Lý do đưa ra là để “tăng cường lợi ích của nhân dân lao động” nhưng lần đổi tiền này gây ra hậu quả kinh tế tai hại với nạn lạm phát lên hơn 700% năm 1986 và liên tục tăng cao trong 3 năm sau đó, qua đến thập niên 1990. (Riêng 2 lần đổi tiền năm 1975 và 1978, dù lý do gì được đưa ra nhưng mục tiêu “đánh tư sản mại bản” và “cào bằng tài sản các giai cấp xã hội”, xóa hết những gì đã tích lũy bằng tiền mặt, đặt mọi người vào một ngạch bằng nhau, đã khiến các nhà tư sản và nhiều gia đình trung lưu lúc bấy giờ khuynh gia bại sản).

QUANG MAI
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Hiện vật người cưỡi trâu lưu giữ tại Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.