Lịch sử những lá Quốc Kỳ trên lãnh thổ Việt Nam

 

SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ý NIỆM QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Việc dùng một vật liệu bất kỳ hay một tấm vải có màu sắc và hình thức nhất định để biểu tượng cho một nhân vật, một gia tộc lãnh đạo hay một cộng đồng chính trị đã có từ ngàn xưa. Trong các cuộc giao tranh dữ dội trên các bãi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên đối đầu nhau đều lấy cờ của “phe mình” làm điểm hội tập và đều tận lực tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó. Trong lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chính trị, việc cắm được cờ của “bên mình” trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực địch đều được xem là một chiến công rạng rỡ.

Tuy nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ hoặc quân chủ chuyên chế, trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn quyền lãnh đạo và được xem là sở hữu chủ duy nhất của quốc gia, hoặc là quân chủ phong kiến, trong đó bên dưới nhà vua còn có những nhà quý tộc làm chủ các lãnh địa, và có khi có những lâm ấp; thị xã; vùng tự trị, trong đó quyền điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa phương. Một số cộng đồng chính trị nhỏ thời đó đã theo chế độ “Cộng Hòa” hay “Dân Quốc”. Với chế độ này, quyền lãnh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế gia cự tộc. Các cộng đồng chính trị kể trên đây đều độc lập hoàn toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chính trị lớn hơn, đều có lá cờ làm biểu hiệu cho mình. Nhưng vì cộng đồng được xem là vật sở hữu của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc lãnh đạo nên lá cờ của cộng đồng cũng được xem như là lá cờ của gia tộc hay các gia tộc đó.

Ý niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc gia không còn được xem là vật sở hữu của một gia tộc mà là vật sở hữu chung của toàn thể mọi người sống trong cộng đồng. Hệ luận của quan niệm mới này là lá cờ một nước không còn là biểu tượng của gia tộc lãnh đạo mà là biểu tượng của toàn thể quốc dân. Người Pháp đã dùng từ ngữ drapeau national để chỉ loại cờ này. Quan niệm của người Pháp dần dần được người các nước khác chấp nhận, và người thuộc các dân tộc nói tiếng Anh đã dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ của mình. Drapeau national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đã được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc kỳ hay cờ quốc gia.

Về mặt thực hiện cụ thể thì lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự vừa kể. Sự hình thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng giữa hoàng gia Pháp và nhân dân thị xã Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu vàng. Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xã được hưởng quyền tự trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi người dân Paris nổi lên làm cách mạng đòi hỏi chính quyền cải tổ chế độ, họ vẫn còn chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis XVI một mặt vì nhu nhược, một mặt vì thiếu phương tiện nên không thể dùng võ lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và chịu chấp nhận các yêu sách của nhân dân Paris. Do đó, hai bên đã đồng ý với nhau lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xã Paris trộn lại làm huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền hành pháp nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của cờ thị xã Paris được ghép hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy hiệu này dần dần được phổ biến khắp nơi trong nước, và đến năm 1793, Quốc Ước Hội Nghị đã chính thức biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc kỳ cho nước Pháp.

Phải nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu Liberté – Égalité – Fraternité là Tự Do – Bình Ðẳng – Bác Ái. Ba màu của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu xanh tiêu biểu cho tự do; màu trắng tiêu biểu cho bình đẳng và màu đỏ tiêu biểu cho bác ái. Cờ tam sắc của Pháp đã đẹp mà còn được giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lý tưởng chung của nhân loại nên quốc dân Pháp đã nhiệt liệt hoan nghinh nó và chấp nhận nó làm biểu tượng cho mình. Về sau, nhiều nước Tây Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đã chọn ba màu xanh, trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái là nền tảng chung của các xã hội dân chủ tự do.

LÁ CỜ ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ

Cho đến trước năm 1945, Việt Nam không có quốc kỳ chính thức. Phải đến năm 1945, cùng với việc thành lập Đế Quốc Việt Nam thì quốc kỳ đầu tiên mới được ban bố áp dụng. Không chỉ Việt Nam mà ở các nước quân chủ cổ các thời khác trước đây, các lá cờ chỉ được dùng để làm biểu tượng cho một triều đại hoàng gia; một đạo quân hay một nhà lãnh đạo.

Hiệu kỳ của các triều đại Đông Phương được các nhà sáng lập chọn lựa màu theo sự tính toán dựa vào thuyết của học phái Âm Dương Gia, nghiên cứu về sự thạnh suy của Ngũ Hành lưu chuyển trong vũ trụ, sao cho triều đại ấy hợp với một Hành đang hưng vượng. Ngoài cờ chung của triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có lá cờ riêng của mình – Đế kỳ – nhưng các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho hoàng gia. Một viên tướng cầm đầu một đạo quân cũng có lá cờ riêng – Soái kỳ – biểu trưng cho đạo quân của mình. Đế kỳ và Soái kỳ thường có màu được xem là hợp với “mạng” của vị cầm đầu đó: Người mạng Kim thì cờ màu trắng; mạng Mộc: màu xanh; mạng Thủy: màu đen; mạng Hỏa: màu đỏ; mạng Thổ: màu vàng. Ý niệm Quốc kỳ biểu tượng cho cả quốc gia, dân tộc chỉ xuất hiện ở Việt Nam chúng ta vào giai đoạn dân tộc bị lọt vào ách cai trị của thực dân Pháp.

Nguyên lúc đó, người Pháp đã thua Ðức và rất suy yếu. Họ không còn đủ quân lực để bảo vệ các thuộc địa xa xôi. Riêng ở Ðông Dương thì người Nhật lợi dụng sự suy yếu của Pháp, đòi quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp phong tỏa phía nam Trung Hoa và tiến đánh Ðông Nam Á Châu với dụng ý chinh phục cả Á Châu. Chính phủ Pháp không thể từ chối lời đòi hỏi của Nhật, và viên Toàn Quyền thời đó là Ðề Ðốc Decoux có nhiệm vụ phải chịu hợp tác với quân chiếm đóng Nhật, đồng thời cố gắng đến tối đa để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Ðông Dương. Ý thức rằng chính sách thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất mãn người Việt Nam mọi giới, Toàn Quyền Decoux đã áp dụng một chính sách hai mặt: Một mặt triệt để đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp; một mặt xoa dịu người Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ nhì trong chính sách này, ông đã có những biện pháp nâng cao uy tín của các nhà vua Ðông Dương.

Hoàng Ðế Bảo Ðại nhân cơ hội này đã đưa ra một vài cải cách và ban chiếu ấn định quốc kỳ của nước Ðại Nam. Quốc kỳ này tên là cờ Long Tinh, nền vàng với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở giữa. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Ðại Nam, nghĩa là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vì Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn phải dùng lá cờ tam tài của Pháp.

NHỮNG LÁ QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Trước thời Pháp thuộc:

Từ khi giành được quyền tự chủ sau thời kỳ Bắc thuộc, các vương triều nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê đều dùng hiệu kỳ màu vàng. Vua Gia Long (1802-1820) cũng dùng màu vàng cho là cờ tiêu biểu của vương triều mình. Có nguồn cho là vua Khải Định (1916-1925), khi sang Paris dự Hội Chợ Đấu Xảo, đã cùng các quan Nam triều sáng chế tại chỗ cờ Long Tinh (thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho hình rồng vào giữa lá cờ vàng) vì cần thiết cho nghi lễ. Tuy nhiên, danh từ “cờ Long Tinh” có lẽ đã xuất hiện từ thời vua Gia Long. Cụ thể, cờ có tên chữ Hán là “Long Tinh Kỳ” với “kỳ” là cờ; “long” là rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng với râu tua màu xanh dương, tượng trưng cho Tiên và đại dương là nơi rồng cư ngụ; “tinh” là ngôi sao trên trời, cũng là màu đỏ, biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành, chấm ở giữa. Tóm lại “Long Tinh Kỳ” là cờ vàng có chấm đỏ viền tua xanh.

Khi Pháp mới tấn công Việt Nam, Việt Sử Toàn Thư (trang 467) ghi “Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi“, có tác giả chú thích rằng cờ này chính là cờ Long Tinh của nhà Nguyễn.

Liên Bang Đông Dương (1883 – 1945):

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp trên toàn Liên Bang Đông Dương sử dụng lá cờ có nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp từ năm 1923 đến khi bị Nhật lật đổ vào 9 tháng 3 năm 1945.

Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc kỳ. Lúc ấy, tại từng vùng thuộc địa trên lãnh thổ Việt Nam, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp và phải dùng quốc kỳ Pháp (còn gọi là cờ tam sắc hay tam tài), Bắc Việt và Trung Việt (được gọi là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên lý thuyết là lãnh thổ của nhà Nguyễn, dùng cờ biểu tượng của vua nhà Nguyễn. Và như trên đã nói, các nhà vua Việt Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng cho mình như thời còn độc lập, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự đến (kỳ đài ở quảng trường Phu Văn Lâu, cột cờ đàn Nam Giao ở ngoại ô kinh thành Huế, hay cột cờ Hành Cung ở các địa phương…) chứ không phải ở mọi nơi trong nước và dĩ nhiên không có tính cách một quốc kỳ.

Ngoài ra còn có các Tinh Kỳ, cờ Đại Hùng Tinh, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Hành, được dùng để biểu thị nghi vệ Thiên Tử trong các buổi thiết triều, các dịp tế lễ, hay theo loan giá những khi nhà vua xuất cung. Lá cờ ban cho các khâm sai đặc sứ, còn được gọi là cờ Mao Tiết, thì màu sắc tùy nghi, trên mặt thêu họ và chức vụ của vị Khâm Sai, chung quanh viền ngân tuyến (chỉ bạc). Các cờ xí treo thời này thường có tua viền xung quanh.

Từ khi Pháp tấn công lãnh thổ Việt Nam, Long Tinh Kỳ (nền vàng viền xanh chấm đỏ) vẫn được dùng như biểu tượng quyền lực của nhà Nguyễn nhưng đến năm 1885, người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng Khánh dùng Long Tinh Kỳ nữa vì lá cờ này thể hiện sự chống đối Pháp (vua Hàm Nghi dùng lá cờ này khi chống Pháp). Triều đình Đồng Khánh dùng lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ thì gồm hai chữ Hán Đại Nam, quốc hiệu của nước Việt Nam lúc đó, và lá cờ có tên Đại Nam Kỳ. Tuy nhiên, những chữ viết trên lá cờ không thực sự giống với các nét chữ Hán của quốc hiệu Đại Nam (大南).

Lá cờ long tinh (cùng cách gọi nhưng hình thức khác với Long Tinh Kỳ đã nói trên) trong giai đoạn cuối của thời Pháp thuộc lần đầu được ấn định làm quốc kỳ nước Đại Nam khi Nhật Bản dần thay chân Pháp ở Việt Nam. Dưới áp lực của quân Nhật, Pháp cố duy trì ảnh hưởng của họ bằng cách đàn áp các phong trào chống đối và nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương. Hoàng đế Bảo Đại nhân cơ hội này đã đưa ra một số cải cách, trong đó có ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam là cờ long tinh, được viên Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux chấp thuận. Cờ long tinh (hình dưới) được dùng trên lãnh thổ Đại Nam (Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Nam Kỳ vẫn dùng cờ tam tài của nước Pháp “bảo hộ”.

Việt Nam Đế Quốc (1945):

Sau khi đế quốc Nhật đảo chính thực dân Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua tuyên bố hủy bỏ Hòa Ước Quý Mùi 1883 và Hòa Ước Giáp Thân 1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế Quốc Việt Nam, và theo chương trình hưng quốc được chánh phủ Trần Trọng Kim ban bố ngày 8 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một trong 8 quẻ của bát quái, gồm một vạch liền, một vạch đứt rồi một vạch liền; bề rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.

Cờ quẻ Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam Kỳ, không trao trả Nam Kỳ ngay cho triều đình Huế. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nghĩa là 4 ngày sau khi chính phủ Nhật quyết định đầu hàng Ðồng Minh và 10 ngày trước khi Hoàng Ðế Bảo Ðại thoái vị (chiều ngày 30/8/1945). Do đó, đại diện của triều đình Huế chưa bao giờ được thật sự cầm quyền ở Nam Việt và cờ quẻ Ly đã không được dùng ở đó. Nam Kỳ, trên thực tế, chưa bao giờ dùng cờ quẻ Ly.

Trong thời gian từ ngày Nhật đảo chánh Pháp cho đến khi Việt Minh củng cố được chính quyền ở Nam Việt thì cả lãnh thổ này không có quốc kỳ.

Trong thời kỳ này, Long Tinh kỳ trở thành lá cờ của hoàng đế, chỉ treo ở hoàng thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du, gọi là Long Tinh Đế Kỳ. Long tinh đế kỳ có sửa đổi nhỏ so với long tinh kỳ trước đó: Nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ quẻ Ly.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 – 1976) và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1976 đến nay):

Quốc kỳ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nguyên ban đầu là hiệu kỳ của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, nền màu đỏ, ngôi sao màu vàng (còn gọi là cờ sao mai) cũng tức là cờ Mặt Trận Việt Minh (Việt Minh là cách gọi gọn của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) ở Bắc Kỳ từ trước tháng 8 năm 1945.

Theo ông Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này do ông Hồ Chí Minh mang về từ nước ngoài và được chính thức treo lần đầu tiên vào “ngày 19.5.1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc hội nghị thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”. Lá cờ này được lực lượng Việt Minh sử dụng hiệu triệu đồng bào đấu tranh chống thực dân Pháp. Tháng 8 năm 1945, Quốc Dân Đại Hội tại Tân Trào quyết nghị lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.

Sau khi giành được chính quyền, cờ Việt Minh chính thức xuất hiện trong buổi lễ tuyên bố độc lập tại Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký sắc lệnh quyết định lấy làm quốc kỳ ngày 5 tháng 9 năm 1945. Kỳ họp thứ I Quốc Hội khoá I nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2 tháng 3 năm 1946 đã biểu quyết công nhận là quốc kỳ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau khi Việt Nam thống nhất và thay đổi quốc hiệu năm 1976, trở thành quốc kỳ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Tuy vậy, trong thời gian Cách Mạng Mùa Thu (cách mạng tháng 8), ngoài đồng bào các nơi (đa phần là Bắc & Trung Kỳ) dưới sự lãnh đạo của Việt Minh sử dụng cờ đỏ sao vàng, một số nơi khác (đa phần là Nam Kỳ) thì lá cờ làm điểm hội tập các thành phần quốc gia ái quốc quyết tâm tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời bấy giờ là cờ vàng sao đỏ của phong trào Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức được thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh Pháp, mục đích để giúp vào việc cứu trợ những nạn nhân các cuộc oanh tạc của Ðồng Minh, sau đó là tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào miền Bắc bị nạn đói, rồi trở thành một trong những lực lượng thời đó tổ chức các cuộc biểu tình giành chính quyền khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Kỳ. Cờ này không có thời kỳ nào được xem là quốc kỳ.

Nam Kỳ Cọng Hòa Quốc (Cọng Hòa Nam Kỳ Tự Trị 1946 – 1948):

Sau khi quân đội Nhật Bản đầu hàng lực lượng Đồng Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được tiếp quản bởi quân đội Liên Hiệp Anh. Rồi Anh nhượng lại quyền kiểm soát cho Pháp. Chính quyền Pháp đã ra sức cổ súy một phong trào gọi là Nam Kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) được thành lập. Từ ngày 1.6.1946, Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc sử dụng quốc kỳ nền vàng với 5 sọc ngang ở giữa, gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng xen kẻ. Cờ có ý nghĩa biểu trưng cho 3 dòng sông Đồng Nai, Tiền Giang và Hậu Giang trên đất Nam Kỳ.

Lá cờ này chỉ tồn tại được 2 năm do chính quyền Cộng Hòa Nam Kỳ Quốc sát nhập vào quốc gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo (ngày 2 tháng 6 năm 1948).

Quốc Gia Việt Nam (1948-1975) & Việt Nam Cọng Hòa (1955-1975):

Ngày 2 tháng 6 năm 1948, Chính Phủ Lâm Thời Quốc Gia Việt Nam (Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) chính thức dùng lá cờ nền vàng với ba sọc đỏ làm quốc kỳ và tiếp tục trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) cho đến suốt thời Đệ Nhất Cọng Hòa (1955-1963) và Đệ Nhị Cọng Hòa (1963-1975) của nước Việt Nam Cọng Hòa (1955-1975).

Lá cờ này do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ và đã trình cho vua Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở Hongkong năm 1947, với ý nghĩa màu cờ tượng trưng cho “máu đỏ, da vàng” của người Việt Nam và ba sọc tượng trưng cho ba miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam. Cờ có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát Quái, màu vàng thuộc hành Thổ và ở vị trí trung ương thể hiện cho chủ quyền quốc gia, màu đỏ thuộc hành Hỏa và chỉ phương nam. Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ.

Cũng có một thông tin cho rằng nhà báo người Ý Tiziano Terani dựa theo lời kể một linh mục Thiên Chúa Giáo tên là Trần Hữu Thanh, cho rằng người thiết kế lá cờ này là ông Thanh do ông này đã có lần giải thích với ông Terzani vào tháng 6 năm 1975 khi Terzani viếng thăm Việt Nam sau sự kiện 30.4.1975 rằng “ba sọc đỏ trên lá cờ tượng trưng cho ba miền của Việt Nam – Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), và Nam Kỳ (Conchin-China).

Hiện nay, lá cờ này không được phép sử dụng tại Việt Nam và cũng không còn sử dụng tại Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên qua “Chiến Dịch Cờ Vàng” tại Hoa Kỳ, lá cờ này đã được chính quyền của nhiều thành phố và tiểu bang thuộc Hoa Kỳ công nhận là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Heritage and Freedom Flag) và coi như là biểu tượng cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại địa phương.

Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (1969 – 1976):

Trước khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập, trong các phong trào đấu tranh của những người Cộng Sản tại miền Nam Việt Nam chống lại chính quyền Việt Nam Cọng Hòa (tiêu biểu là phong trào Đồng Khởi), hiệu kỳ cờ đỏ sao vàng thường được sử dụng để hiệu triệu dân chúng như một biểu tượng nhắc nhở về những thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh.

Khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động ở miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến tới thống nhất đất nước, đã sử dụng hiệu kỳ cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng.

Khi chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1969 để đối trọng với chính phủ Việt Nam Cọng Hòa, hiệu kỳ này được dùng làm quốc kỳ cho Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nó được sử dụng đến khi sáp nhập hai nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Theo một số văn bản của Ban Bí Thư Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam (Đảng Công Sản Việt Nam ngày nay) ngày 30.4.1975 và sau đó năm 1975, thì khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn sử dụng cờ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời, ngày mừng chiến thắng sử dụng hai cờ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; các ngày lễ sau đó cả 2 miền sử dụng treo hai cờ, miền bắc cờ Mặt Trận treo các công sở, cơ quan, còn ngày thường miền nam sử dụng cờ Mặt Trận.

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1976 đến nay):

Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Quốc Hội Việt Nam khóa VI đã lấy quốc kỳ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm quốc kỳ của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với vài thay đổi nhỏ (phần ngôi sao) so với mẫu cờ nguyên thủy. Đây là quốc kỳ chính thức của nước Việt Nam thống nhất từ 1976 đến nay (gọi là cờ đỏ sao vàng).

Riêng các Cộng Đồng Người Việt tại nhiều quốc gia định cư ở hải ngoại vẫn sử dụng lá quốc kỳ (cờ vàng ba sọc đỏ) từ thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

 QUANG MAI
(Sưu tầm từ nhiều nguồn).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.