Hội Nghị Huynh Trưởng Gia Đình Phật Hóa Phổ:
Từ ngày 24 đến 26 tháng 4 năm 1951, chị Nguyễn Thị Ni – nay là Ni Trưởng Thích Nữ Hải Triều Âm tân viên tịch mà anh chị em Gia Đình Phật Tử quen trìu mến gọi là Sư Bà Hải Triều Âm – đã đặt những bước chân từ miền Bắc Việt vào ngôi chùa Từ Đàm lịch sử trên đất thần kinh Huế. Ngôi chùa ghi dấu nhiều sự kiện ấy trong những ngày lịch sử đó đang diễn ra Hội Nghị Huynh Trưởng Gia Đình Phật Hóa Phổ (tức Đại Hội Gia Đình Phật Tử Việt Nam kỳ I), một Đại Hội Huynh Trưởng đầu tiên được triệu tập với sự tham dự của 8 tỉnh miền Trung: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Thuận, Di Linh, Lâm Viên và Đồng Nai Thượng, cùng các đại diện chính thức của Gia Đình Phật Hóa Phổ miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Chị Ni là một trong những Huynh Trưởng đại biểu chính thức đầu tiên đại diện Gia Đình Phật Hóa Phổ tại Bắc Việt vào tham dự hội nghị.

Chị Nguyễn Thị Ni cùng các em Gia Đình Phật Tử Hải Phòng.
(Ảnh chụp năm 1954). Chị là một trong những Huynh Trưởng đầu tiên
của Gia Đình Phật Hóa Phổ Bắc Việt vào tham dự Đại Hội
thống nhất GĐPT tại chùa Từ Đàm, Huế năm 1951.
Thành phần Đại Biểu tham dự Đại Hội lúc bấy giờ gồm:
Miền Bắc: Anh Lê Văn Lãm, chị Tuệ Mai, chị Tuệ Ngọc, chị Diệu Minh, chị Ni, chị Tý.
Miền Nam: Quý anh Nguyễn Hữu Huỳnh, Nguyễn Văn Thục.
Miền Trung: Quý anh Võ Đình Cường, Lê Mộng Đào, Nguyễn Đắc An, Mai Quang Hòa, Dương Xuân Nhơn, Dương Xuân Dưỡng, Phan Cảnh Tuân, Hoàng Anh Cung, Nguyễn Khoa Đánh, Cao Chánh Hựu, Nguyễn Xuân Quyền, Lữ Hồ, Nguyễn Khắc Từ, Nguyễn Khoa Việt, Phan Văn Gái, Phan Xuân Sanh… Quý chị: Hoàng Thị Kim Cúc, Lương Thị Đào, Đặng Tống Tịnh Nhơn.

Huynh Trưởng Tuệ Mai cũng là một trong những Huynh Trưởng đầu tiên tại Bắc Việt vào tham dự Đại Hội nói trên cùng chị Ni. Chị là một nữ sĩ có nhiều thi phẩm giá trị. Sau khi vào Saigon chị đã góp công không nhỏ trong việc xây dựng GĐPT.
Dĩ nhiên một Đại Hội quan trọng như vậy thì thành quả thu gặt được gồm nhiều nội dung, nhưng quan trọng và đáng nhớ không thể nào quên là Đại Hội lịch sử này đã:
– Quyết nghị chuyển đổi danh xưng Gia Đình Phật Hóa Phổ thành Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
– Biểu quyết chấp thuận bản Nội Quy Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Chị Tuệ Ngọc, chị Tuệ Mai, chị Tý (GĐPHP Bắc Việt) và các em Gia Đình Phật Hóa Phổ Hà Nội.
Một sự kiện ngoài lề đáng nhớ nữa là: Vui mừng trước nổ lực và thành công rực rỡ của Đại Hội, Trưởng Phan Xuân Sanh đã vẽ lại tại chỗ tặng Đại Hội bức tranh các em Đồng Nam, Đồng Nữ sắp thành hàng rào danh dự dàn chào từ chùa Từ Đàm đến chùa Diệu Đức, nghênh đón các phái đoàn đại biểu, với bản nhạc “Gia Đình Thân Ái” trên bức tranh.

Lễ công nhận GĐPT Minh Tâm (chùa Quán Sứ, Hà Nội) năm 1952 nhân mùa Thành Đạo.
Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt:
Sau Đại Hội Gia Đình Phật Tử lần thứ nhất kể trên, Gia Đình Phật Tử miền Bắc ngày càng phát triển mạnh mẽ, bắt đầu từ các GĐPT Minh Tâm, Liên Hoa, Minh Đạo, Từ Quang, lan dần đến các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc Yên… Nhu cầu điều hợp các đơn vị Gia Đình trở nên cấp thiết, do đó Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt nhanh chóng được hình thành, sinh hoạt trực thuộc Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt).

Đoàn Thiếu Nữ GĐPHP Minh Tâm, tiền thân GĐPT Minh Tâm (Hà Nội). Ảnh chụp năm 1952.
Thành phần Ban Hướng Dẫn Bắc Việt đầu tiên lúc ấy gồm:
– Trưởng Ban: Anh Chân Minh – Nguyễn Văn Nhã.
– Phó Trưởng Ban Ngành Nam: Anh Lê Vinh.
– Phó Trưởng Ban Ngành Nữ: Chị Tuệ Mai.
– Thư Ký: Chị Tuệ Nga.
– Ủy Viên Văn Nghệ: Anh Chân Quang – Trần Thanh Hiệp.
Chị Ni là một trong số các Ủy Viên khác trong Ban Hướng Dẫn.

Trưởng Bùi Ngọc Bách với đội văn nghệ hóa trang của một GĐPT thuộc Vĩnh Yên (Bắc Việt) – 1952.
Nền tảng của Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã được xây dựng và đang có chiều hướng phát triển sâu rộng, lan dần từ thành thị đến tận miền quê bất kể chiến tranh đang trong thời kỳ ác liệt những năm 1953-1954. Sức sống và sự trưởng thành của tổ chức thôi thúc phải tổ chức Đại Hội kỳ II để duyệt xét lại Nội Quy, chương trình tu học và hình thức sinh hoạt.
Đây là Đại Hội Huynh Trưởng lần thứ 2 được triệu tập vẫn còn đầy đủ đại diện của 3 miền Bắc, Trung, Nam gồm 63 Đại Biểu, họp tại chùa Từ Đàm – Huế từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 1 năm 1953.

Trưởng Bùi Ngọc Bách và một đơn vị GĐPT Vĩnh Yên – 1952.
Số lượng Đại Biểu tham dự Đại Hội:
– Bắc Việt: 7 Đại Biểu gồm 3 Gia Đình Liên Hoa (Hà Nội), Liên Hoa (Hải Phòng) và Minh Tâm (chùa Quán Sứ, Hà Nội).
– Nam Việt: 1 Đại Biểu (Trưởng Nguyễn Văn Thục đại diện chính thức cho GĐPT Nam Việt).
– Trung Việt: 55 Đại Biểu.
Đến thời điểm Đại Hội này thì chị Ni đã xuất gia (vào năm 29 tuổi) và hiện chúng tôi chưa xin phép truy lục tài liệu được để tham khảo nên chưa dám xác quyết tại Đại Hội này chị có tham dự với tư cách đại biểu cho GĐPT Bắc Việt hay không. Khi có được tư liệu chính xác chúng tôi sẽ xin bổ sung sau. Anh chị em Lam Viên và quý độc giả còn tư liệu hay hình ảnh về chị Nguyễn Thị Ni (Cố Ni Sư Hải Triều Âm) chia sẻ cho, chúng tôi xin hết lòng cảm niệm. Xin gởi: thuvien.gdpt@gmail.com
QUANG MAI
oOo
Nguồn tài liệu & hình ảnh: “Gia Đình Phật Tử Việt Nam 50 Năm Xây Dựng” – GĐPTVN Tại Hải Ngoại xuất bản – Hương Quê ấn hành – California, USA, 1995.
———=oOo=———
PHỤ LỤC CẬP NHẬT
Tiểu sử Cố Đại Lão Sư Trưởng
HẢI TRIỀU ÂM
(Ni Chúng chùa Dược Sư, Sài Gòn cẩn sọan)
Sư Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô Hà Nội.
Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
Thầy sanh trưởng trong gia đình nề nếp gia phong, được huân ướp một đời sống đạo đức, lễ nghi của người châu Á. Kiến thức văn hóa, trí tuệ sâu rộng từ trường học Tây phương. Thầy đã có một lối sống khuôn phép nhưng khoáng đãng, lịch sự nhưng cương trực.
Lấy xong bằng tốt nghiệp Diplôme D’étude Primaire Suprieur Thầy đi dạy học. Ngay khi còn tại gia, Thầy đã biểu lộ lòng từ bi. Ngày ngày dạy học, ngoài thời giờ Thầy vào các bệnh viện, trại mồ côi, dưỡng lão để giúp đỡ an ủi động viên những mảnh đời bất hạnh.
Cơ duyên được biết Phật pháp là do Sư cụ Thích Tuệ Nhuận. Bài pháp đầu tiên được nghe Sư cụ giảng tại chùa Quán Sứ là kinh Lăng Nghiêm, phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí niệm Phật. Lãnh hội được sự vi diệu của Phật pháp đem lại niềm an vui cho mọi người. Sau đó, Thầy thường in những cuốn kinh nhỏ phát cho các Phật tử tới chùa tụng kinh hàng ngày.
Quy y với Hòa-thượng Pháp chủ đương thời là ngài Thích Mật Ứng, được Ngài đặt cho pháp danh là Hải Triều Âm.
Thầy sáng lập gia đình Phật tử, mở các hội trưởng lão, thanh thiếu niên, nhi đồng ở Hà Nội, Hải Phòng. Ngoài ra Thầy còn viết bài cho tòa báo Bồ Đề của Sư cụ Thích Tuệ Nhuận, dưới bút hiệu là Thích Nữ Cát Tường Lan. Các bài pháp rất thực tế, đưa Phật pháp vào tư tưởng thanh thiếu niên trong thời đại giao thoa giữa Nho giáo và Tây học ở những năm cuối của thập niên 40-50, thế kỷ XX.
Năm 29 tuổi, thâm ngộ lẽ vô thường, phước thiện thế gian không thể đưa đến giải thoát. Thầy xuất gia với Hòa-thượng Thích Đức Nhuận, ở Hà Nội. Hòa-thượng cho y chỉ và thọ giới với Hòa-thượng Ni Tịnh Uyển, chùa Thanh Xuân, làng Phùng Khoang, Hà Nội.
Đến năm 1952, vâng lời Hòa-thượng Bổn Sư di cư vào Nam. Nhập chúng tại Ni trường Dược Sư, Gia Định, Sài Gòn. Vừa lo tu học, vừa hầu mẹ già bị bệnh bán thân, vừa lãnh việc chuyên giảng dạy cho Phật tử. Thầy tinh trì giới luật, nghe kinh Kim Cang lãnh ngộ được tông chỉ niệm Phật. Thầy tu quán Tứ Niệm Xứ để khai tuệ giác tỉnh, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến Phật.
Khoảng năm 1962, sau khi mẹ mất, vì muốn báo hiếu công ơn mẹ, Thầy nhập thất 5 năm ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức, Sài Gòn, những mong nhập Niệm Phật tam muội.
Năm 1968, Hòa-thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh-độ ở thôn Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng. Mời Thầy về để cùng một số Ni chúng thành lập xã Hoa Sen, noi gương Tổ Huệ Viễn. Nơi đây, Thầy nhập thất tại tịnh thất Linh Quang, chuyên tâm niệm Phật.
Năm 1970, Hòa-thượng Thích Thanh Từ mở lớp tu thiền 3 năm ở Thiền viện Chơn Không, Vũng Tàu. Thầy là một trong 10 vị khóa đầu được Hòa-thượng chiêu sinh. Thầy theo khóa học thiền để hỗ trợ cho công hạnh tu Tịnh-độ. Sau thời gian tu tập, Thầy ngộ được tôn chỉ “Tri vọng vọng tan, chính là quán hạnh Tứ Niệm Xứ”.
Năm 1973, Thầy trở về Tịnh thất Linh Quang, Lâm Đồng nối tiếp công phu tu niệm.
Nhưng từ hoài bi nguyện độ sanh không bỏ, Thầy bắt đầu độ chúng, lúc đó chỉ có vài chục người. Đến nay đã thành lập 9 chùa Ni Liên, Linh Quang, Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Bát Nhã và Dược Sư 2. Đủ các căn cơ, già trẻ, lớn bé cho đến người tàn tật, trẻ mồ côi Thầy đều đưa tay tế độ, mong họ được kết duyên với Phật pháp. Phật tử quy y thì không biết bao nhiêu mà kể.
Mặc dù giác biết chúng sanh huyễn có, vẫn dùng pháp huyễn để độ chúng sanh. Ngày ngày lên lớp giảng dạy, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, lời lẽ uyên bác, chỉ mặt phải, răn mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời, mong sao cho các con thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy của Thầy ai nghe cũng thấy đúng với tâm trạng của mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất thực tế.
Đối với đại chúng, Thầy khiêm cung, giản dị, từ hòa. Nhưng nghiêm khắc đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những xấu ác, nhưng bao dung những lồi lầm chỉ cốt cho đại chúng thành những bậc pháp khí trong Phật pháp. Thầy một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm không giờ phút nào Thầy ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác giác tha.
Tấm gương vô ngã vị tha của Thầy, không lời lẽ nào kể hết được. Hạnh đức của Thầy đã gieo vào tâm thức chúng con những ấn tượng khó phai. Lúc Thầy ở Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, Sài Gòn, học chúng đổ về học pháp rất nhiều, không đủ chỗ, Thầy sửa lại phòng tắm làm chỗ nghỉ cho mình, nhường phòng mình làm chỗ ở cho đại chúng. Còn nhớ những ngày đông giá rét ở xứ lạnh cao nguyên, ai ai cũng co ro lo tìm sự an ổn cho mình. Riêng Thầy, áo mền ấm áp nhường tất cả cho các con, ráp những tấm vải thô vừa nặng vừa chẳng đủ ấm làm phần của mình.
Thấy đàn hậu lai trí kém tuệ ít, Thầy toát yếu lại những bộ kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… lời văn giản dị, xác thực để học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Mắt đeo kính, dưới ánh đèn dầu, Thầy miệt mài đọc sách dịch kinh. Từng bộ kinh hán văn dày cộm đầy những chữ với bộ óc tuổi già thật mỏi nhọc, Thầy vẫn hết sức cố gắng cặm cụi dịch sang việt ngữ để đàn hậu lai có sách học tập. Thầy đã biên dịch, biên soạn, toát yếu hơn 100 đầu sách và in ấn không biết bao nhiêu mà kể. Bậc chân tu liễu đạo thường ẩn danh nên mỗi một cuốn sách viết ra Thầy không để tên mình bao giờ, mà lấy tên của các đệ tử đặt vào sách (sau này khi tái bản, chúng con đã mạn phép ghi tên Tôn Sư vào sách). Ấn tống các kinh Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư gởi khắp Bắc Trung Nam, để các Phật tử có kinh tiếng Việt. Mang bệnh giựt cơ trên đầu mấy chục năm nhưng chưa từng vì đó mà nghỉ ngơi. Năm 1983, vì muốn làm cuốn Hai Cánh Nhà Ni cho các Tỳ-kheo-ni mới thọ giới nắm vững giới điều, Thầy đã thức suốt cả tháng.
Một lòng tôn kính Phật Pháp Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào Thầy đều thành kính đảnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo pháp, cả đời Thầy nêu cao tấm gương vì pháp quên thân. Đối với Tăng Ni, Thầy khiêm cung, kính trọng, dạy hàng đệ tử chúng con suốt đời phải thực hành Bát Kính Pháp. Dạy chúng con nếp sống lục hòa, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Thầy thường răn nhắc chị em phải tinh tấn tu hành để đền ơn thí chủ. Đời sống giản dị, tiết kiệm từng hạt gạo, tấm vải. Thường răn dạy chúng con không được phung phí vật dụng Tam-bảo, phải biết yêu tiếc như giữ tròng con mắt. Thầy kiệm đức kiệm phước trong từng hành động, 70 tuổi vẫn tự giặt áo, giăng mùng, không phiền nhọc một người hầu hạ. Mãi đến 80 tuổi, Phật sự đa đoan, tuổi già mỏi nhọc, Thầy mới cho hàng đệ tử chúng con trợ giúp. Đến khi già lão, thân suy yếu lại bệnh nhưng chưa bao giờ Thầy hiện tướng mỏi nhọc buồn phiền, gặp ai cũng nở nụ cười từ ái. Ai đến gần Thầy đều cảm nhận được sự mát mẻ từ bi, tất cả bao phiền não đều tiêu tan.
Bởi vì thấu đạt được chân lý “nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, nên con sâu cái kiến, hàm linh bão thức, các loài chúng sanh, đã có duyên với Thầy đều được thừa hưởng ân đức Thầy ban bố, được thấm nhuần pháp vị. Lòng từ bi của Thầy không chỉ nhân loại được hưởng mà thấm nhuần đến từng cỏ cây, loài vật. Với chúng sanh, đói Thầy cho ăn, khát Thầy cho uống, rét Thầy cho áo mặc, niệm Phật để nó kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau. Thầy răn dạy chúng con “đó chính là những huynh đệ chúng ta từ kiếp trước, chỉ vì một chút lỗi lầm phải đọa làm thân chó, nên các con phải tận tình thương xót”.
Xếp đặt cho các con trong hiện tại đã đủ mọi bề khó khăn, lại còn lo mai này, Thầy về cõi Phật, các con nương tựa vào đâu ? Thầy làm chùa, xây dựng cho hậu lai nơi ăn chốn ở. Nhưng thế sự vô thường, không bền chắc, chỉ có Phật pháp mới là nơi nương tựa vững vàng nhất. Thầy vì đàn hậu lai mở ra một đường lối tu hành rõ ràng. Năm 1988, Thầy viết một bài Di Chúc, để lại cho đàn hậu lai chúng con. Đó vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân Thầy và cũng là kim chỉ nam chỉ lối đưa đường cho đàn hậu lai chúng con trên bước đường tu học.
Qua bao thăng trầm thế sự, Thầy vẫn như núi kia bất động trước cảnh đời dâu bể, vẫn cúi xuống tận lực đùm bọc che chở, nuôi dưỡng thánh chủng cho hàng đệ tử chúng con. Sức an định của Thầy như núi cao bất động trước phong ba của tám gió. Trí tuệ của Thầy như trăng sáng chiếu soi, phá tan bao hắc ám của đời sanh tử. Dù nói bao nhiêu cũng không đủ lời để tán dương hạnh đức Tôn sư.
Năm 2009 ngày 6 tháng 7 âm lịch, Thầy để lại bút tích như sau:
Ký ca ký cóp
Đóng góp nên công
Nhẹ như lông Hồng
Bay về cực lạc
Hào quang sáng quắc
Vẫy gọi muôn phương
Cái bướm con mèo
Trời người muôn loại
Mau mau tỉnh giấc
Thoát xác vô minh
Giải nghiệp hữu tình
Lên đường giải thoát.
Bốn năm sau ngày Sư Trưởng để lại bút tích. Mùng 4 tháng 4 năm Quý Tỵ (13/5/2013) là ngày Vía đức Văn Thù Bồ-tát, cũng là ngày Kỷ niệm xuất gia lần thứ 64 của Thầy, một vầng hào quang rực rỡ xuất hiện trên đỉnh tháp khoảng từ 8 đến 12 giờ trưa.
Trước ngày vãng sanh, Thầy cho biết đã nhìn thấy đức A Di Đà, đức Văn Thù Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát cùng các thánh chúng đến đón.
11 giờ 56 phút, ngày 31 tháng 7 năm 2013 (nhằm ngày 24 tháng 6 năm Quý Tỵ): Thầy thu thần thị tịch, hoa sen trắng thẳng vãng trời Tây. Thượng thọ 94 tuế thế, 60 hạ lạp.
Thí chủ xây Kim Quang tháp cúng dường tại Ni viện Dược Sư, Đức Trọng, Lâm Đồng, nơi an nghỉ cuối cùng của nhục thân trần thế.
Thần thức lên miền An Dưỡng,
Nghiệp chướng bỏ lại trần lao.
Hoa khai chín phẩm sen vàng,
Phật rủ nhất thừa thọ ký.
Trong suốt những ngày tang lễ đều có vầng hào quang xuất hiện trên đỉnh tháp, dưới sự chứng kiến của những người tham dự.
Liên tiếp các ngày tuần thất cho đến tuần chung thất, cũng đều có hào quang xuất hiện và mây ngũ sắc trên bầu trời.
Sư trưởng đã thị hiện vô thường, để lại niềm nuối tiếc khôn nguôi cho hàng trăm, hàng ngàn đệ tử xuất gia và tại gia trên khắp thế giới.
Chúng con mạo muội viết lên ít dòng để nêu lên một phần nào công hạnh của Tôn sư, mong rằng những người hữu duyên được mông ân pháp vũ.
Nam mô Kim Quang tháp, Tào Động phái, pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, đại lão Sư trưởng giác linh.
Ngày 7 tháng 7 năm 2014
Chùa Dược Sư chúng con trân trọng kính ghi đền ơn pháp nhũ.