TIỂU SỬ
TỔ NGŨ TỔ – PHÁP DIỄN
五 祖 法 演
(1024-1104)
Đời thứ 10 tông Lâm Tế – Thiền Tông Trung Hoa
oOo
Ma-ni châu báu tự nhiên sanh
Muốn được phải nên dứt đấu tranh
Phương tiện khéo quyền chăm thuyết pháp
Biện tài vô ngại quyết tâm hành
Sư nhân việc ấy mồ hôi đổ
Ta bởi do đây dạy trẻ lành
Xá-lợi như mưa bày đại định
Dương tháp Đông Sơn sớm tựu thành.
Thiền Sư Ngũ Tổ – Pháp Diễn họ Đặng, người Miên Châu (Tứ Xuyên), Trung Quốc. Năm ba mươi lăm tuổi Ngài mới thế phát xuất gia. Thọ giới Cụ-túc xong Ngài đến thành đô học tập luận Bách Pháp, Duy Thức.
Ngài nhân nghe Bồ-tát khi vào kiến đạo, Trí cùng Lý hợp, Cảnh cùng Thần hội, chẳng phân năng chứng sở chứng. Ngoại đạo ở Ấn Độ thường vấn nạn Tỳ-kheo rằng: Đã chẳng phân năng chứng sở chứng, lại lấy cái gì làm chứng?
Tỳ-kheo không đáp được. Ngoại đạo chê bai không đánh chuông trống, chúng lại mặc ca-sa. Pháp Sư Huyền Trang sang Ấn Độ cứu được nghĩa này rằng: “Như người uống nước, lạnh nóng tự biết.” Từ đây mới giải được cái nạn này.
Ngài nói: Lạnh nóng ắt là biết vậy, thế nào là việc tự biết?
Ngài liền chất vấn thầy dạy: Chẳng biết lý tự biết như thế nào?
Giảng sư cũng không giải được, chỉ khuyên rằng: Ngươi muốn rõ lẽ này nên đến phương Nam hỏi những vị truyền Phật Tâm Tông.
Ngài liền mang gói sang phương Nam, gặp các bậc tôn túc đều hỏi câu này, chỗ nghi trọn chẳng phá được. Khi đến Thiền Sư Bổn ở Viên Chiếu thì những nhân duyên xưa nay đều hiểu hết. Chỉ hiểu chỗ: “Tăng hỏi Hưng Hóa: Khi bốn phương tám mặt đến thì thế nào? Hưng Hóa đáp: Đánh ở giữa đi. Tăng làm lễ. Hưng Hóa nói: Hôm qua ta đi phó trai trong thôn, đi đường gặp một trận gió to mưa lớn, lại nhằm trong miếu cổ tránh được qua.” Ngài đem điều này hỏi Thiền Sư Bổn. Bổn đáp: Đây là nhân duyên dưới tông Lâm Tế, phải hỏi con cháu trong nhà ấy mới được.
Ngài liền đến yết kiến Thiền Sư Viễn ở Phù Sơn thưa hỏi điều này. Viễn bảo: Ta có một thí dụ nói tương tợ cho ông. Ông giống như kẻ bán củi trong ba thôn, gánh một gánh đến chữ thập (+) đầu đường đứng hỏi người, ở trong nhà ngày nay thương lượng việc gì?
Ngài thầm nghĩ rằng: Nếu như thế vẫn chưa phải.
Một hôm, Viễn bảo: Ta già rồi e qua mất thì giờ của ông, nên đến nương với Bạch Vân, lão này tuy hậu sanh ta chưa biết mặt, chỉ thấy bài tụng ba gậy của Lâm Tế có chỗ hơn người, ắt hay làm xong việc lớn cho ông.
Ngài thầm lặng lễ từ. Khi đến tham yết Thiền Sư Bạch Vân, Ngài hỏi câu thoại đầu ”Nam Tuyền ma-ni châu”, ngay lập tức bị Bạch Vân nạt lớn, Ngài tỏ ngộ, dâng bài kệ đầu cơ:
Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
Xoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông
Kỷ độ mãi lai hoàn tự mại
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong.
Dịch:
Trước non một mảnh nhàn điền địa
Tay chấp tận tình hỏi Tổ ông
Mấy độ bán ra rồi mua lại
Vì thương tùng trúc dẫn gió lành.
Bạch Vân ấn khả, sai coi việc trồng gai. Chưa bao lâu, Bạch Vân đến bảo Ngài: Một số thiền khách ở Lô Sơn đều có chút tỏ ngộ, bảo nói, họ cũng nói được; nêu nhân duyên, họ cũng hiểu được; bảo trình kiến giải, họ cũng trình được; chỉ là chưa được hiện tiền mà thôi!.
Lúc ấy Ngài rất nghi, thầm nghĩ: Đã ngộ rồi nói cũng nói được, rõ cũng rõ được, tại sao chưa hiện tiền?
Ngài về phòng, tham cứu suốt nhiều ngày, bỗng nhiên đại ngộ, vội tìm Bạch Vân. Thấy Bạch Vân đang tay múa, chân đạp. Ngài chỉ một cái cười mà thôi. Sau Ngài lùi lại thưa: Con nhân đây khắp thân toát mồ hôi, liền rõ được gió mát trong lành.
oOo
Một hôm Bạch Vân dạy Chúng: Người xưa nói như gương đúc tượng. Sau khi tượng thành, gương ở chỗ nào?
Chúng hạ ngữ đều chẳng khế hợp. Bạch Vân hỏi Ngài, Ngài lại gần nói: Cũng chẳng so sánh nhiều.
Bạch Vân cười bảo: Phải là đạo giả mới được.
oOo
Ban đầu Ngài ra trụ trì chùa Tứ Diện; kế dời về Bạch Vân; về già đến trụ Đông Sơn núi Ngũ Tổ nên đương thời gọi Ngài là Thiền Sư Ngũ Tổ.
oOo
Tăng hỏi: Cầm gậy lãnh chúng, Tổ lệnh đang hành, ngồi cắt yếu tân, ý Sư thế nào?
Ngài đáp: Gió thu thổi sông Vị, lá rụng đầy Trường An.
Tăng thưa: Tứ Diện không cửa núi non đẹp, ngày nay mới được chủ nhân về.
Ngài bảo: Ông nói đầu đường ở chỗ nào?
Tăng thưa: Tại sao đối diện chẳng biết nhau?
Ngài bảo: Đáng mừng đến rồi.
Tăng hỏi: Thế nào là một giọt nước Bạch Vân?
Ngài đáp: Giã gạo đập gai.
Tăng hỏi: Người uống thì sao?
Ngài đáp: Bảo ông không chỗ để mắt.
Tăng hỏi: Đầu lưỡi người trong thiên hạ bị Bạch Vân ngồi cắt, đầu lưỡi Bạch Vân người nào ngồi cắt?
Ngài đáp: Thôn Đông ông Vương Đại.
Ngài thượng đường dạy: Cổ nhân nói: “Nếu ta vì ông nói liền dứt mất lưỡi của ta, nếu chẳng nói với ông liền câm mất miệng của ta, hãy nói lại có chỗ vì người hay chăng?” Tứ Diện có khi nghĩ vì ông nuốt mất, chỉ bị răng trước cửa làm ngại, nghĩ vì ông mửa hết, lại bị cổ họng nhỏ, hãy nói lại có chỗ vì người hay không?
Ngài bèn nói: Tứ Diện tự đến Liễu Hạ Huệ.
oOo
Ngài thượng đường dạy: Bạch Vân chẳng biết nói thiền, ba cửa mở qua hai bên, có người động đến cây chốt, hai cánh quạt đông quạt tây.
oOo
Ngài thượng đường dạy: Một bề thế ấy đi, lộ vắng người thưa; một bề thế ấy đi, cô phụ Thánh trước; bỏ hai lối này Tổ, Phật không thể gần, giả sử cùng Bạch Vân đồng sanh đồng tử cũng chưa xứng bình sanh. Sao vậy? phụng hoàng chẳng phải phàm phu vật, chẳng được ngô đồng thệ chẳng nương.
oOo
Tiểu tham vấn, Ngài nhắc: Đức Sơn nói “Đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy”. Trong chúng thông đó rất nhiều, hiểu đó chẳng ít. Hãy nói nhằm chỗ nào thấy Đức Sơn? Có người nào chẳng tiếc tánh mạng thử ra nói xem? Nếu không, sơn tăng vì đại chúng cùng lão nhân Đức Sơn thấy nhau vậy. Đợi Đức Sơn nói “Đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy”, chỉ nhằm Ngài nói “Có thoại cũng chẳng hỏi, gậy cũng chẳng ăn”. Các ông nói, lại ăn gậy Đức Sơn chăng? Đến trong đây phải là kẻ ấy mới được. Huống là ta hơn mười năm trên biển kiếm tìm, thấy mấy vị tôn túc tự cho là hiểu đúng; khi đến trong hội Phù Sơn liền là mở miệng chẳng được; sau đến dưới cửa Bạch Vân, nhai vỡ được một hạt đậu đá liền được trăm vị đầy đủ. Hãy nói một câu hạt đậu làm sao nói?
Ngài lại nói: Hoa nở màu gà my sớm thu, người nào hay nhuộm đỏ sợi tơ, có khi gió động cùng nương tựa, dường nhắm trước thềm dấu chẳng thôi.
oOo
Ngài thượng đường dạy: Hôm qua sơn tăng vào thành thấy một hàng rào, trong là người gỗ, liền lại gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải xanh bọc lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi ông tên gì, người kia nói: Hòa Thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị người kia hỏi một câu khiến cho không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Lại có người vì sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc.
oOo
Ngài dạy Chúng: Chân như, phàm thánh đều là lời mộng, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ. Hoặc có người ra nói: “Lão Bàn Sơn ghê!” Chỉ nói với y: “Chẳng nhân Tử Bá hoa nở sớm, đâu được hoàng oanh đậu liễu tơ”. Nếu lại hỏi rằng: “Lão Ngũ Tổ ghê!” Tự bảo: “Vâng! Tỉnh tỉnh lấy”.
oOo
Ngài dạy Chúng, nhắc: Hòa Thượng Đức Sơn nhân Tăng hỏi “Chư Thánh từ trước lấy pháp gì dạy người?” Đức Sơn đáp: “Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người”. Tuyết Phong do đây có tỉnh. Sau có vị Tăng hỏi Tuyết Phong “Hòa Thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi đi?” Tuyết Phong nói: “Ta khi ấy đi tay không về tay không”.
Ngày nay Bạch Vân nói “Nhằm thấu chưa qua”. Có người từ Đông Kinh lại, hỏi y “Chỗ nào lại?” Y lại nói: “Tô Châu lại”. Hỏi y “Tô Châu việc thế nào?” Y nói: “Tất cả tầm thường”. Tuy nhiên như thế, dối Bạch Vân chẳng được. Cớ sao? Chỉ vì ngữ âm mỗi nơi có khác. Cứu kính thế nào? Tô Châu ấu, Thiệu Bá sen.
oOo
Ba ông “Phật” hầu Ngài trên một cái nhà trạm nói thoại ban đêm, đến khi trở về đèn đã tắt. Ngài ở trong tối bảo: Mỗi người hạ một chuyển ngữ.
Phật Giám thưa: Phụng đẹp múa đêm vắng.
Phật Nhãn thưa: Rắn sắt ngang đường xưa.
Phật Quả thưa: Xem gót chân.
Ngài bảo: Diệt tông ta là Khắc Cần vậy!
oOo
Niên hiệu Sùng Ninh thứ ba đời vua Huy Tông (1104), ngày hai mươi lăm tháng sáu, Ngài thượng đường từ biệt Chúng: Hòa thượng Triệu Châu có câu rốt sau, các ông làm sao hội, thử ra nói xem? Nếu hội được chẳng ngại sống thích thú tự tại; bằng chưa được thế, việc tốt này làm sao nói?
Ngài im lặng giây lâu nói tiếp: Nói tức nói rồi, chỉ là các ngươi chẳng biết. Cần hiểu chăng? Giàu hiềm ngàn miệng ít, nghèo hận một thân nhiều. Trân trọng!
Ngài trở về trượng thất tắm gội sạch sẽ, gần sáng nằm kiết tường an nhiên thị tịch. Sau khi trà tỳ xá-lợi nhiều vô số. Tháp xây ở phía nam Đông Sơn.
Có bài tán:
Ma-ni bảo châu
Không từ người được
Câu ”chưa hiện tiền”
Khởi nghi thiền khách
Cười lớn về nhà
Lối nhỏ chật hẹp
Gió mát trong lành
Phá cách anh kiệt./.