Tiểu sử Tổ Đại Huệ – Tông Cảo (Đời thứ 50 – Thiền Tông Trung Hoa)

 

 

TIỂU SỬ

TỔ ĐẠI HUỆ – TÔNG CẢO (DIỆU HỶ)
大 慧 宗 杲
(1089-1163)

Đời thứ 50 – Thiền Tông Trung Hoa

oOo

Gần gũi bạn lành trí huệ sinh
Mở mang huệ nhãn bóng trăng in
Tam tâm chẳng được nào đi đến
Tứ tướng rỗng rang há tử sinh
Năm uẩn giả danh ngời Bát-nhã
Sáu căn hỗ dụng quỷ thần kinh
Không ngờ gặp phải lời sàm tấu
May rủi xưa nay việc thế tình.

Thiền Sư Đại Huệ – Tông Cảo họ Hề, người vùng Ninh Quốc, Tuyên Châu (Tuyên Thành), Trung Quốc. Năm mười ba tuổi, Ngài mới đi học theo Nho Giáo ở Phát Mông, học chưa được nửa tháng liền bỏ đi xuất gia ở viện Huệ Văn thuộc Đông Sơn.

Năm mười bảy tuổi, Ngài được thọ giới Cụ-túc. Tuy Ngài tuổi nhỏ đã biết việc trong tông môn. Ngài xem hết các Ngữ Lục, thích nhất là lời Vân Môn, Mục Châu. Ngài nghĩ “ngũ gia tông phái” buổi đầu chỉ một Tổ Đạt-ma, vì sao lại có nhiều môn đình? Song tánh Ngài cao siêu, không chịu ràng buộc. Cha mẹ khuyên Ngài nên đi du phương.

Lúc ấy ở Tuyên Châu có Thiền Sư Thiệu Trình ở Minh Giáo thừa kế Thiền Sư Thản ở Hưng Giáo, là cháu Thiền Sư Giác ở Lang Nha. Ngài nghe Thiệu Trình là người bảo tham nên tận tâm thờ phụng, Ngài thường thưa hỏi về niêm cổ, tụng cổ của Tuyết Đậu và nhân duyên các bậc cổ túc. Thiệu Trình chỉ dạy “cốt phải thẳng đó tự thấy, tự nói; chẳng rảnh bàn ngôn ngữ kia”. Ngài thấu suốt được chỗ chỉ dạy của tiên đức. Thiệu Trình lấy làm lạ, mỗi khi khen thường nói: “Cảo là người tái lai”.

Sau đó Ngài lại sang Dĩnh Châu tham vấn các Thiền Sư của tông Tào Động là Thủ Tọa Nguyên ở Đại Tùy; Hòa Thượng Vi ở Động Sơn; Thị Giả Kiên. Hòa Thượng Vi làm thủ chúng ở Phù Dung; Thị Giả Kiên làm thị giả cho Phù Dung mười năm. Ngài tham học với ba vị này khá lâu nên thấu rõ được tông chỉ tông Tào Động. Tuy nhiên trông thấy việc thắp hương truyền trao để chứng tỏ là phó chúc chẳng dối, Ngài bất bình nghĩ: Thiền có truyền trao đâu phải pháp tự chứng tự ngộ của Phật, Tổ.

Rồi Ngài lần lượt đến tham vấn dưới tòa Thiền Sư Triết ở Chơn Như, vào thất Tạng Chủ Khánh, Bồng Đầu Hiền. Ngài cùng Tạng Chủ Khánh đến Hoàng Long yết kiến Hối Đường, Đông Lâm, tham vấn Chiếu Giác nhưng đều chẳng hợp.

Ngài lại yết kiến Thiền Sư Tuần (là cao đệ của Tú Thiết Diện) ở Tâm Ấn. Cùng Ngài đàm đạo, Thiền Sư Tuần lấy làm lạ, muốn lưu ở dưới Hội mà Ngài chẳng chịu. Thiền Sư Tuần nhân đó chỉ Ngài đến Bảo Phong tham vấn Thiền Sư Chuẩn (tức Trạm Đường).

Ở đây Ngài mới đến cơ biện tung hoành. Chuẩn bảo: Lỗ mũi ông tại sao có nửa bên?

Ngài thưa: Môn hạ Bảo Phong.

Chuẩn bảo: Thiền hòa đổ soạn.

Nhân dịp tô vẽ lại tượng Thập Vương, Chuẩn chỉ tượng hỏi Ngài: Quan nhân này họ gì?

Ngài đáp: Họ Lương.

Chính Thiền Sư Chuẩn là họ Lương. Chuẩn xoa đầu tượng nói: Tại sao họ Lương lại thiếu cái đầu trọc?

Ngài thưa: Đầu tuy chẳng đồng, lỗ mũi tương tợ.

Chuẩn bảo: Thiền hòa đổ soạn.

Nhân xem kinh Kim Cang, Chuẩn hỏi Ngài: Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, vì sao núi Vân Cư cao, núi Bảo Phong thấp?

Ngài đáp: Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp.

Chuẩn bảo: Ông làm được kẻ tớ tọa chủ.

Một hôm, Chuẩn bảo Ngài: Thượng Tọa Cảo! Tôi có thiền tí xíu này, ông mỗi mỗi lý hội được chăng?

Ngài thưa: Lý hội được.

Chuẩn bảo: Dạy ông nói cũng nói được, bảo ông làm cũng làm được, niêm cổ, tụng cổ, tiểu tham, phổ thuyết thảy được, chỉ có một sự kiện chẳng phải, ông có biết chăng?

Ngài thưa: Chưa biết là sự kiện gì?

Chuẩn bảo: Ông chỉ thiếu một cái “à!”. Vì thế khi nói thì có, khi chẳng nói liền không; khi vào phương trượng thì có, khi ra phương trượng liền không; khi tỉnh tỉnh thì có, khi ngủ mê liền không; làm sao địch được sanh tử?

Ngài thưa: Chính là chỗ con nghi.

Thiền Sư Chuẩn có bệnh, Ngài đến hỏi: Con về sau phải thấy người nào?

Chuẩn bảo: Có gã Cần, ta chẳng biết y, ông nên yết kiến đó, sẽ hay biện được việc của ông. Nếu ông liễu chưa xong nên tu hành, xem Đại Tạng Kinh, thân sau ra đời nhất định là thiện tri thức.

Ở tu và làm thị giả với Trạm Đường được ít lâu thì Trạm Đường tịch. Theo ý chỉ trước đó, Trạm Đường đã dặn Ngài đến tham vấn với Thiền Sư Viên Ngộ.

Sau khi Trạm Đường viên tịch, Ngài ra mắt thừa tướng Trương Thiên Giác nhờ làm bài minh ở tháp. Thiên Giác môn đình cao, đối với thiền khách ít hứa nhận nhưng gặp Ngài một phen nói chuyện là khế hợp. Thiên Giác cùng giúp Ngài đến yết kiến Viên Ngộ.

Lúc ấy, Viên Ngộ từ Tương Sơn vâng chiếu đến trụ trì chùa Thiên Ninh tại Đông Kinh. Viên Ngộ chưa đến, Ngài đã đến trước, tạm dừng chân tại tham đường rồi. Viên Ngộ nhập viện, Ngài sớm chiều thưa thỉnh. Viên Ngộ nhắc: Tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là chỗ Chư Phật xuất thân?” Vân Môn đáp: “Núi đông trên nước đi”, và bảo Ngài hạ ngữ. Ngài tham cứu ngót một năm, đã hạ bốn mươi chín chuyển ngữ đều chẳng hợp.

Một hôm, Viên Ngộ đến phó trai nhà một ông quan, đăng tòa nhắc: Tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là chỗ Chư Phật xuất thân?” Vân Môn đáp: “Núi đông trên nước đi”. Nếu là Thiên Ninh thì không như thế. Nếu có người hỏi: “Thế nào là chỗ Chư Phật xuất thân?” Chỉ nói với y: “Gió Nam từ Nam lại điện các sanh mát mẻ”.

Ngài nghe nhắc hoát nhiên tỉnh ngộ, bèn đem sở ngộ trình Viên Ngộ. Viên Ngộ xét Ngài tuy mé trước sau đoạn, tướng động chẳng sanh, song ngồi ở chỗ sạch trọi trơn, bảo Ngài rằng: Chưa phải, ông tuy có đắc mà đại pháp chưa sáng.

Một hôm, Ngài vào thất, Viên Ngộ bảo: Cũng chẳng dễ. Ông đến trong điền địa này, chỉ đáng tiếc chết rồi không thể sống lại được. Chẳng nghi ngôn cú ấy là bệnh lớn. Chẳng thấy nói: “Bờ thẳm buông tay tự nhận thừa đương, chết rồi sống lại dối anh chẳng được”. Phải biết có đạo lý này.

Ngài thưa: Con chỉ cứ như chỗ được hiện nay đã là sống thích, lại không thể lý hội được.

Viên Ngộ không nhận, bèn sai Ngài làm thị giả. Mỗi ngày, Ngài cùng sĩ đại phu bàn luận, vào thất đến ba bốn lần. Viên Ngộ bèn nhắc: “Có câu không câu như bìm nương cây” hỏi Ngài.

Ngài vừa mở miệng, Viên Ngộ liền nói: Chẳng phải! Chẳng phải!

Như thế đến nửa năm chưa được ấn khả, niệm niệm chẳng quên nơi tâm. Một hôm cùng các quan khách ăn cơm, Ngài cầm đũa nơi tay mà quên há miệng. Viên Ngộ cười bảo: Kẻ này tham Huỳnh Dương mộc thiền, lại rút ngược đi.

Ngài liền nói thí dụ: Đạo lý của Hòa Thượng giống như con chó nhìn chảo mỡ nóng, muốn liếm lại liếm chẳng được, muốn bỏ lại bỏ chẳng được.

Viên Ngộ bảo: Ông dụ rất hay, chỉ cái này là chuồng Kim Cang là lùm gai lật.

Lại một hôm Ngài hỏi: Nghe nói Hòa Thượng đương thời ở chỗ Ngũ Tổ cũng hỏi thoại này, chẳng biết Ngũ Tổ đáp thế nào, xin Thầy chỉ dạy?

Viên Ngộ lặng thinh không nói. Ngài thưa: Khi xưa Hòa Thượng chẳng phải tự hỏi riêng, phải ở trước đại chúng hỏi, nay nói lại có ngại gì?

Viên Ngộ nói: Ta hỏi “Có câu không câu như bìm nương cây là thế nào?” Ngũ Tổ bảo: “Tả cũng tả chẳng thành, vẽ cũng vẽ chẳng được”. Ta lại hỏi: “Chợt gặp cây ngã bìm khô thì thế nào?” Ngũ Tổ bảo: “Theo nhau lại vậy”.

Ngài nghe nhắc ngay đó đại ngộ, bèn nói: Con hội vậy.

Viên Ngộ nói: Chỉ e ông lại thấu công án này chưa được.

Ngài thưa: Thỉnh Hòa Thượng cử.

Viên Ngộ liền cử một mạch những công án của tiền bối hỏi Ngài. Ngài theo tiếng đối đáp không trệ ngại. Viên Ngộ vỗ tay khen hay, lại đối Chúng khen rằng: Cảo chẳng phải một đời hai đời làm thiện tri thức lại.

Từ đây Ngài nói dọc ngang tự tại như ném hòn gạch xuống nước, như xoay viên đá tròn trên bàn ngàn nhẫn. Chư lão túc khó vượt qua được sự bén nhạy của Ngài. Ngài đã đại triệt.

Một số thiền khách có nghi đến hỏi Viên Ngộ. Viên Ngộ bảo: Cái thiền của ta giống như biển cả, các ông đem được biển cả đến nghiêng lấy mới được. Nếu chỉ đem bát chậu đến chứa được chút ít bèn thôi, khí lượng của các ông chỉ như thế, bảo ta phải làm sao, được bao nhiêu cái đến điền địa của ông. Khi trước có Thượng Tọa Cảo cùng các ông một loại, lại đã chết rồi.

Chưa bao lâu, Viên Ngộ cử Ngài làm thủ chúng. Khi ấy, hàng sĩ đại phu thường thường tranh đến với Ngài.

Viên Ngộ trở về Thục, Ngài từ biệt về ở Cổ Vân Môn, học giả đua nhau đến. Lại chạy loạn sang Hồ Nam, qua Giang Hữu, vào Mân, Ngài cất am Trường Lạc ở sườn núi. Khi ấy theo Ngài năm mươi ba người, chưa đầy năm mươi ngày mà đắc pháp mười ba người.

Cấp sự Giang Công Thiếu Minh thỉnh Ngài trụ am Vân Môn ở Tiểu Khê. Thừa tướng Trương Ngụy Công khi ở Thục nghe Viên Ngộ nói Ngài thật được pháp tủy, khi về triều mời Ngài trụ Cảnh Sơn phủ Lâm An. Ngài đến trụ nơi đây, pháp tịch hưng thạnh một thời, những ngôi nhà chứa mấy trăm người đều không chỗ dung, phải lập lầu gác lớn chứa cả ngàn người, Chúng thường có mặt trên hai ngàn.

Buổi khai pháp ban đầu, Ngài đăng tòa, vấn đáp chưa xong, lại có mấy vị tăng tranh nhau ra hỏi. Ngài nắm đứng lại nói: Dừng! Dừng! Giả sử quả đất có bao nhiêu cây cỏ nghiền nát làm bụi, mỗi mỗi hạt bụi có một cái miệng; mỗi mỗi cái miệng đủ vô ngại tướng lưỡi rộng dài; mỗi mỗi tướng lưỡi xuất vô lượng âm thanh sai biệt; mỗi mỗi âm thanh phát vô lượng ngôn từ sai biệt; mỗi mỗi ngôn từ có vô lượng diệu nghĩa sai biệt. Như trên, thiền tăng bằng số bụi, mỗi mỗi đủ miệng như thế; lưỡi như thế; âm thanh như thế; ngôn từ như thế; diệu nghĩa như thế, đồng thời đặt trăm ngàn vấn nạn, mỗi vấn nạn khác nhau, mà chẳng đủ một tiếng tằng hắng của trưởng lão Cảnh Sơn này đồng thời đáp xong. Khi này ở trong ấy làm Phật sự vô lượng vô biên rộng lớn, mỗi mỗi Phật sự khắp cả pháp giới. Cho nên nói, một sợi lông hiện thần biến, tất cả Phật đồng nói kinh, nơi vô lượng kiếp chẳng biết bờ mé, được thế ấy náo nhiệt môn đình thì phải. Nếu dùng chánh nhãn xem đó, chính là nghiệp thức mờ mờ không gốc để y cứ, dưới cửa Tổ Sư một điểm dùng cũng chẳng được. Huống là soi móc chương cú, vạch bày ngôn phong, chẳng những chôn vùi tông thừa từ trước, cũng là cười vỡ lỗ mũi của thiền tăng. Vì thế nói, còn mảy tơ buộc niệm là nghiệp nhân tam đồ, chợt vậy tình sanh là bao vây muôn kiếp, hiệu phàm danh thánh trọn là tiếng rỗng, tướng tốt hình xấu đều là sắc huyễn, ông muốn cầu đó lại không lụy sao? Nếu là chán đó cũng thành đại hoạn. Xem Tiên Đức kia nói dạy như thế, như binh khí của quốc gia bất đắc dĩ mà dùng, trên việc bổn phận cũng không có tin tức này. Ngày nay sơn tăng cử xướng như thế, giống hệt không mộng nói mộng, thịt lành khoét thành thương tích, kiểm điểm ra nên ăn cây gậy. Hiện nay có người hạ được độc thủ hay chăng? Nếu có, kham đền cái ơn chẳng đền, cùng giúp giáo hóa vô vi. Nếu không, hành ngược lệnh này vậy.

Ngài cầm gậy lên nói: Ngang chân Mạc-da toàn chánh lệnh, thái bình hoàn vũ chém ngu si.

Ngài lia gậy một cái, hét một hét!

oOo

Ngài dạy chúng: “Điên đảo tưởng sanh, sanh tử nối; điên đảo tưởng diệt, sanh tử dứt; chỗ sanh tử dứt Niết-bàn không; chỗ Niết-bàn không trong mắt bụi.” Niết-bàn đã không, nói cái gì trong mắt bụi? “Mây trắng chợt về che núi biếc, trăng trong khó bảo xuống trời xanh.” Ngài lại nói: Nước Ma-kiệt-đề vẫn ở giữa đường, trước ngọn Thiếu Thất toàn không lỗ mũi, bàn huyền nói diệu thịt lành khoét thành thương tích, nhắc xưa rõ nay ném cát chọi đất. Đâu bằng đói ăn, khát uống, rảnh ngồi, mệt ngủ, mặc cho bốn mùa đổi dời chẳng can hệ việc của ta. Tuy nhiên như thế, cũng phải thật đến điền địa này mới được. Chỉ như thật đến điền địa này làm sao thân cận?

Ngài hét một hét, nói: Châm cứu trên vết thương lại để một viên ngải cứu cháy.

oOo

Ngài thượng đường hỏi đáp xong, bèn nói: Hỏi được cũng tốt, chẳng hỏi lại gần. Cớ sao? Con đường trước tiếng ngàn thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng. Trong đây nếu có kẻ anh linh, thế ấy chẳng thế ấy, tai nghe nhắc đến đứng dậy liền đi, vẫn ở trong hang ổ bìm sắn. Hẳn được trong không sở chứng, ngoài không sở tu, giống như đất chở núi, đá ngậm ngọc, chưa phải chỗ thiền tăng buông thân mạng. Dám hỏi đại chúng, thế nào là chỗ thiền tăng buông thân mạng? Nếu như biết được trần trần niệm niệm đều không rỗng thiếu, xoay quanh cúi ngước trọn ở trong kia. Chính khi ấy cứu kính cái gì là trăng gia phong, lại hiểu chăng? “Ngàn Thánh nào biết đi đâu tá, Ỷ Thiên trường kiếm hiếp lạnh người.”

Ngài xuống tòa.

oOo

Ngài thùy ngữ hỏi học giả: Tôi trong đây không có pháp cho người, chỉ là cứ bản kết án. Giống như ông đem cái bình lưu ly đến tiếc giữ, giống cái gì? Tôi một phen trông thấy liền vì ông đập bể. Ông lại đem hạt châu ma-ni đến, tôi lại vì ông cướp mất. Đợi ông chỉ thế ấy lại, tôi lại vì ông chặt đứt hai tay. Vì thế Hòa Thượng Lâm Tế nói: “Gặp Phật giết Phật; gặp Tổ giết Tổ; gặp La-hán giết La-hán.” Đã nói là thiện tri thức vì sao lại thích giết người vậy? Hãy nói là đạo lý gì?

oOo

Những người tham thiền thỉnh Ngài nói thiền bệnh. Ngài bảo: Thiền có bệnh gì có thể nói. Thiền lại chẳng từng bệnh nhức đầu; chẳng từng bệnh điếc tai; chẳng từng bệnh mờ mắt, chỉ là người tham thiền tham được sai biệt; chứng được sai biệt; dụng tâm sai biệt; nương thầy sai biệt, nhân những sai biệt này nên nói là bệnh. Chẳng phải nói thiền có bệnh. Như hỏi thế nào là Phật, đáp tức tâm là Phật, có bệnh gì? Hỏi con chó có Phật tánh không, đáp không, có bệnh gì? Nếu nói bảo trúc bề (thanh tre) là chạm, chẳng bảo trúc bề là trái, có bệnh gì? Hỏi thế nào là Phật, đáp ba cân gai, có bệnh gì? Hỏi thế nào là Phật, đáp cục cứt khô, có bệnh gì? Ông chẳng thấu suốt, vừa khởi đạo lý cần thấu liền ngàn dặm muôn dặm không giao thiệp. Toan đem tâm phân biệt nó, toan đem tâm suy nghĩ nó, nhằm chỗ cử lên hiểu rõ, chỗ chọi đá nháng lửa luồng điện chớp hội, cái này mới là bệnh. Thầy thuốc thế gian đành bó tay. Song cứu kính chẳng can hệ việc thiền. Ngài Triệu Châu nói: Cốt cùng vua “Không” làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh rất khó trị.

oOo

Bấy giờ có hai vị trưởng lão Đàm Ý và Tôn Phác, buổi đầu hầu Viên Ngộ ở Tương Sơn có chỗ vào, sau lại đến dưới tòa Chơn Yết, tự vỗ ngực cho là hiện thời không ai qua nổi. Ngài biết hai vị chưa triệt mà đã khai pháp, sợ e làm lầm lẫn kẻ hậu học, nên viết thơ cho Đàm Ý bảo hãy tạm đến. Đàm Ý hổ thẹn chần chờ chẳng đi. Ngài nhân buổi tiểu tham quở thẳng những sai lầm kia, nêu bảng ở trước cửa báo cho tứ chúng biết. Đàm Ý nghe như vậy, bất đắc dĩ phá hạ đến dưới hội Ngài. Ngài hỏi chỗ sở chứng kia rằng: Ông kiến giải như thế đâu từng mộng thấy lão nhân Viên Ngộ, thật muốn cứu kính việc này, hãy giải tán Chúng, đến đây.

Đàm Ý nghe lời dạy trở về, qua hạ cùng với Tôn Phác đồng đến hội Ngài. Hai vị vào thất, Ngài hỏi Tôn Phác: Tam Thánh nói ta gặp người ắt xuất, xuất ắt chẳng vì người. Hưng Hóa nói ta gặp người ắt chẳng xuất, xuất ắt vì người. Ông nói hai lão túc lại có chỗ xuất thân hay không?

Tôn Phác nhằm trên đầu gối Ngài đánh một đấm. Ngài hỏi: Một đấm này của ông vì Tam Thánh xuất khí? Vì Hưng Hóa xuất khí? Nói mau! Nói mau!

Phác suy nghĩ, Ngài nhằm xương sống liền đánh! Lại bảo: Thứ nhất ông chẳng được quên một gậy này. Đi ra!

Đã lâu sau mà hai vị chưa được vào cửa. Một hôm, nhân có vị Tăng khác vào thất, hai vị nghe lỏm.

Ngài hỏi vị Tăng: Đức Sơn vừa thấy Tăng vào cửa liền đánh; Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét; Tuyết Phong thấy Tăng vào cửa liền nói “là cái gì?”; Mục Châu thấy Tăng vào cửa liền nói hiện thành công án “tha ông ba mươi gậy”. Ông nói bốn vị tôn túc này lại có chỗ vì người hay không?

Tăng thưa: Có.

Ngài bảo: Chép.

Tăng suy nghĩ. Ngài liền hét đuổi ra. Tôn Phác nghe, chợt có tỉnh. Đàm Ý cũng tiếp theo nơi một câu nói có tỉnh; từ trước những ác tri ác giải khi này tiêu tan. Sau hai vị đều kế thừa Ngài.

oOo

Có một vị Tăng vừa vào cửa. Ngài bảo: Chẳng phải, đi ra!

Vị Tăng liền ra. Ngài bảo: Không lường đại nhân, bị trong ngữ mạch chuyển.

Kế một vị Tăng vào. Ngài bảo: Chẳng phải, đi ra!

Vị Tăng lại đến gần. Ngài bảo: Đã nói với ông chẳng phải, lại đến gần tìm cái gì? Liền đánh đuổi ra.

Lại một vị Tăng vào nói: Vừa rồi hai vị Tăng chẳng hiểu ý Hòa Thượng.

Ngài liền cúi đầu hư một tiếng. Vị Tăng mờ mịt. Ngài liền đánh nói: Lại là ông hiểu ý lão tăng.

Lại có vị Tăng vào. Ngài bảo: Ông chẳng hiểu, đi ra!

Tăng cũng ra. Lại một vị Tăng vào. Ngài bảo: Vừa rồi có hai Thượng Tọa, một người biết nắm mà chẳng biết buông; một người biết buông mà chẳng biết nắm, ông lại biện được chăng?

Tăng thưa: Một trạng lãnh qua.

Ngài bảo: Sau khi lãnh qua riêng có tin tức rất tốt.

Vị Tăng vỗ tay một cái, liền ra. Ngài bảo: Sau ba mươi năm ngộ đi vậy!

Ngài hỏi một vị Tăng: Trên đường gặp người đạt đạo chẳng đem nói nín đáp là thế nào?

Tăng trân trọng, liền đi. Ngài cười ha hả!

Kế một vị Tăng đến, Ngài bảo: Tôi vừa hỏi vị Tăng này: “trên đường gặp người đạt đạo chẳng đem nói nín đáp là sao?” Y trân trọng rồi đi, ông nói y hội, chẳng hội?

Tăng suy nghĩ thưa hỏi. Ngài liền đánh đuổi ra.

Lại có vị Tăng đến. Ngài nói: Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Tăng đáp: Kẻ không mặt mày.

Ngài bảo: Vừa rồi có vị Tăng nói như thế, bị đánh đuổi ra.

Tăng suy nghĩ. Ngài liền đánh!

oOo

Ngài trụ Cảnh Sơn ((Kính Sơn) nổi danh một thời, như thị lang Trương Tử Thiều, trạng nguyên Uông Thánh Tích, thiếu khanh Bằng Tế Xuyên đồng đến hỏi đạo; còn bao nhiêu danh sĩ đại phu đến thưa hỏi. Ngài tùy cơ khai ngộ đều được thông suốt.

Sau do tể tướng Tần Cối ganh ghét sàm tấu Ngài đương thời giáo hóa thành lập mình, mạt sát người, Ngài bị giáng chức, bị nạn cởi pháp phục đày ra Hàng Châu mười năm, rồi lại đày đến Mai Châu. Mai Châu là nơi chướng khí, quê mùa, vậy mà thiền khách vẫn mang lương thực theo Ngài, dù chết cũng không hối hận.

Được tám năm, vua Cao Tông đặc ân tha cho, năm sau trả lại pháp phục. Sau vua ra chiếu mời Ngài trụ chùa Dục Vương, Chúng tụ họp đông vô kể. Hai năm sau, chiếu vời trụ lại Cảnh Sơn.

Hoàng đế Hiếu Tông khi còn làm Phổ An Quận Vương nghe danh Ngài, sai nội đô giám đến Cảnh Sơn yết kiến Ngài. Ngài làm bài kệ dâng vua:

Đại căn, đại khí, đại lực lượng
Gánh vác đại sự chẳng tầm thường
Trên đầu sợi lông thông tin tức
Khắp cõi sáng ngời chẳng giấu che.

Vua xem rất vui. Ở Kiến Đề, nhà vua (cũng đã là đệ tử của Ngài) sai quan nội tri khách thỉnh Ngài trong núi vì Chúng nói pháp; vua tự tay viết hai chữ Diệu Hỷ to tại am Diệu Hỷ của Ngài (do đây người đương thời cũng gọi Ngài là Diệu Hỷ) và làm bài tán ban tặng Ngài:

Sanh diệt chẳng diệt,
Thường trụ chẳng trụ.
Viên giác sáng không,
Tùy vật chỗ hiện.

Hai năm sau, vua sắc ban hiệu Ngài là Đại Huệ Thiền Sư.

Niên hiệu Long Hưng năm đầu (1163) đời Tống Hiếu Tông, ngày mười tháng tám, tại Minh Nguyệt Đường ở Cảnh Sơn, Ngài có chút bệnh, nói với đệ tử: Ngày mai ta sẽ đi.

Đến canh năm hôm ấy, Ngài đích thân viết di biểu và đề thư cho Trương Ngụỵ. Khi sắp thị tịch, thị giả xin kệ, Ngài cầm bút viết:

Sanh cũng chỉ thế ấy
Tử cũng chỉ thế ấy
Có kệ cùng không kệ
Là cái gì quan trọng.

Viết xong Ngài ném bút thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi tám tuổi hạ. Vua ban hiệu là Phổ Giác, tháp hiệu là Bảo Quang. Ngài có để lại cuốn “Thiền Sư Đại Huệ Ngữ Lục” rất nổi tiếng, đến nay vẫn được dùng trong thiền môn.

Có bài tán:

Núi báu bịt mũi
Từ Minh điếc tai
Phật pháp sáng chói
Trúc bề(1) nhắc ai
Cây đổ bìm lay
Ngộ ngay pháp ấn
Nồng nặc tanh hôi
Đầy tràn khắp cõi.

(1) Trúc bề: Cây gậy dùng để đánh thức người hành thiền ngủ gật hoặc hôn trầm.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.