Đại cương Luận CÂU-XÁ

ĐẠI CƯƠNG LUẬN CÂU-XÁ

Thượng Tọa Giáo Thọ Sư THÍCH NHUẬN CHÂU
Biên soạn & thuyết giảng cho Huynh Trưởng GĐPT Miền Quảng Đức (Sài Gòn) tại Tịnh thất Suối Từ ngày 29/10/2023

MỤC LỤC:

I. TỔNG QUAN.
II. TÁC GIẢ.
III. PHIÊN DỊCH & TRUYỀN BÁ.
IV. NHAN ĐỀ BỘ LUẬN.
V. VỊ TRÍ CỦA LUẬN CÂU-XÁ TRONG LUẬN THƯ Ā-TÌ-ĐÀM.
VI. CẤU TRÚC LUẬN CÂU-XÁ.
VII. NỘI DUNG LUẬN CÂU-XÁ.
VIII. TÓM TẮT.

I. TỔNG QUAN

1) Luận Câu-xá là luận thư thuộc Nhất-thiết-hữu bộ (Sarvāstivāda), một bộ phái gốc từ Phật giáo thời kỳ đầu (Nguyên thủy; Tiểu thừa; e: Early Buddhism) có nhiều luận điểm làm tiền đề cho khuynh hướng Đại thừa (Mahāyāna).

2) Luận Câu-xá là luận thư có hệ thống bao quát và chặt chẽ, đóng vai trò trung tâm của văn hệ A-tì-đạt-ma (Luận tạng / Abhidharma).

3) Nội dung bộ luận gồm nhiều khoa mục và pháp số, giải thích chi tiết và sâu sắc nghĩa kinh.

Luận Câu-xá đề cập nhiều lãnh vực trong Phật giáo như Bản thể học, Tâm lý học, Đạo đức học, Vũ trụ quan… nên được xem là kho tàng Phật Pháp (Kośa/ Câu-xá).

II. TÁC GIẢ

Tổ Thế Thân (世 親 – Vasubandhu, 316-396) là tác giả của bộ Luận Câu-xá (Kośa-bhāṣyam).

Tượng Bồ-tát Thế Thân (Vasubandhu)

Ngài Thế Thân là một trong những Luận sư lỗi lạc của Phật giáo Ấn Độ. Ngài sinh trưởng trong gia đình Bà-la-môn, xuất gia tu học theo Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda), về sau theo Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Ngài được người anh của mình là Vô Trước (無 著 – Asaṅga, khoảng 315-390) khuyến hóa sang tư tưởng Đại thừa.

Có giả thuyết  cho rằng có 2 Thế Thân, một theo Hữu bộ, một theo tư tưởng Đại thừa. Thế nhưng thuyết này không được nhiều người ủng hộ (đọc ‘Triết học Thế Thân’ của Lê Mạnh Thát).

III. PHIÊN DỊCH & TRUYỀN BÁ

Luận Câu-xá truyền sang Trung Hoa qua 2 bản dịch:

1) Chân Đế (Paramārtha) người nước Ưu-thiền-ni (Ujyaini) Ấn Độ, dịch thành 22 quyển dưới triều Trần Văn Đế (Trung Hoa), niên hiệu Thiên Gia thứ 4 (563 stl.)

2) Huyền Trang đời Đường (Trung Hoa) dịch thành 30 quyển trong những năm 650 stl., các Ngài Thần Thái, Phổ Quang, Pháp Bảo, Viên Huy, Huệ Huy viết sớ giải truyền bá.

Từ đó, Luận này trở thành giáo nghĩa nền tảng của Câu-xá tông Trung Hoa (xem ‘Mười tông phái Phật giáo ở Trung Hoa’ – Phật Học Phổ Thông khóa thứ 5, bài 6, HT. Thích Thiện Hoa).

Việt dịch: A-tì-đạt-ma Câu-xá luận – Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch từ nguyên bản tiếng Sanskrit đối chiếu bản tiếng Hán của Huyền Trang, gồm 6 quyển.

III. NHAN ĐỀ BỘ LUẬN

Nhan đề đầy đủ của bộ Luận Câu-xá là Abhidharma-kośa-bhāṣyam / A-tì-đạt-ma Câu-xá luận.

A-tì-đạt-ma, hay a-tì-đàm, phiên âm từ abhidharma, được cấu tạo bởi hai thành tố abhi và dharma.

Abhi: có 2 nghĩa chính:
a) Đối diện và xâm lấn (facing and aggressing); hướng đến, nghịch lại, đến nơi hay tiến vào (towards, against, on to, at).
b) Chế ngự (mastering): bên trên, dọc theo bên trên, ngoài phía trên, trên đỉnh của (over, along over, out over, on top of).
[Theo Từ điển Pāli-Anh của Hội Thánh Điển Pāli (PTS)].

Tiếp đầu ngữ abhi~ ghép với động từ hay danh từ, có 2 nghĩa chính:
a) Vô tỷ, và những ý tưởng tương tự: tối thắng, tăng thượng v.v…, chỉ cho tất cả những gì ưu việt, cao hơn, sâu hơn, quý hơn, tinh vi hơn.
b) Đối hướng: hướng đến, liên quan đến.

Dharma: Hán dịch là pháp, với 2 nghĩa chính:

a) Pháp sở chứng, chân lý mà đức Phật đã chứng nghiệm. Pháp ấy hiểu theo ý nghĩa bao trùm rộng lớn, tất cả những gì ý thức có thể vươn đến, thực hay giả, hữu hình hay vô hình, thường nghiệm hay siêu nghiệm. Tất cả những cái tồn tại hoặc không tồn tại, thực hay giả này, bị chi phối bởi một hay những quy luật nhất định; quy luật chi phối và những gì được chi phối đều gọi chung là pháp (dharma).

b) Pháp sở thuyết, từ chân lý được chứng ngộ, đức Phật khai thị và hướng dẫn thực hành để đạt đến chân lý ấy.

Còn một nghĩa thứ ba, trong phạm vi rất rộng, bao trùm tất cả các yếu tố, mọi hiện tượng tâm, vật, vạn hữu, thường được khái niệm theo 2 phạm trù: hữu vi và vô vi. Ý nghĩa này không giới hạn, đến mức nội dung trở thành mơ hồ, khó xác định, nhưng tất cả đều được bao hàm trong 2 nghĩa (a, b) nói trên. Từ ngữ dharma trong abhidharma được hiểu 1 trong 2 nghĩa (a, b) này, hoặc luôn cả 2 nghĩa.

Abhidharma (A-tì-đạt-ma/ A-tì-đàm), được giải thích: “pháp này dẫn đến tất cả thiện pháp, tức các bồ-đề phần” (bodhipakṣa), còn gọi là “trợ đạo phẩm”, “pháp tối thắng”. A-tì-đạt-ma: Luận tạng. Tì-bà-sa luận nói “Chư Phật xuất thế đều công bố Tam tạng: Tố-đạt-lãm (Kinh/ Sūtram), Tì-nại-da (Luật/ Vinaya) và A-tì-đạt-ma (Luận/ Abhidharma).”

Kośa: Câu-xá, Hán dịch là tạng. “Kośa, là cái mà người ta đút kiếm vào hay cái mà từ đó người ta rút kiếm ra.” Kośa là bao đựng kiếm, hay bao đựng. Theo đó, Kośa là sở y của A-tì-đạt-ma, là xuất xứ của A-tì-đạt-ma. Còn có nghĩa là kiên thật, tức lõi cây; là cốt lõi, tinh yếu của A-tì-đạt-ma.

IV. VỊ TRÍ CỦA LUẬN CÂU-XÁ TRONG LUẬN THƯ Ā-TÌ-ĐÀM

Sự phát triển của A-tì-đạt-ma là nỗ lực hệ thống hóa giáo nghĩa do Phật thuyết, trong nỗ lực duy trì tính chính thống, và cũng nhắm khai triển những ẩn nghĩa trong các bản Kinh cho phù hợp với nhận thức thời đại.

Mặt khác, trong lịch sử phát triển xã hội và tư tưởng, các đệ tử Phật thường xuyên gặp phải những vấn đề xã hội mới mẻ và cũng thường xuyên bị tấn công bởi các học thuyết khác. Trong nỗ lực hệ thống hóa và triển khai giáo nghĩa, nhiều quan điểm khác nhau do từ môi trường xã hội, hoặc từ điểm quan sát khác nhau, nên có nhiều tư tưởng đa dạng trong A-tì-đạt-ma.

Sau thời đức Phật, càng về sau trình độ nhận thức của người Ấn Độ càng đạt đến những mức phát triển đáng kể về mọi mặt. Từ sự quan sát các hiện tượng vật lý, tâm lý, cho đến các nguyên tắc suy luận, các khái niệm toán học… Những vấn đề như vậy không được nêu lên trong các kinh điển được cho là nguyên thủy (Phật giáo thời kỳ đầu). Do sự phát triển của xã hội, nhất là trên phương diện tư tưởng, học thuật, nhiều ý tưởng chỉ manh nha trong thời đức Phật đã không ngừng hoàn thiện lý luận để trở thành một hệ thống tư tưởng nhất quán với tham vọng toàn diện, giải thích được mọi hiện tượng, mọi biến cố trong vũ trụ. Bằng những lý luận ấy, họ bắt đầu tấn công giáo nghĩa Phật pháp.

Trong bối cảnh tư tưởng triết học và tôn giáo ấy, các bộ phái Phật giáo khai triển giáo nghĩa Phật thuyết, lập thành những phạm trù khái niệm để đối kháng, phê bình, bác bỏ các tà thuyết đương thời.

Câu-xá luận ra đời trong giai đoạn hình thành Luận thư cương yếu, nhằm giải thích những đề giải khó khăn, những nạn vấn nêu bởi các bộ phái khác (khoảng đầu kỷ nguyên tl. cho đến cuối thể kỷ V tl.)

Sau khi tham học giáo nghĩa của Nhất-thiết-hữu bộ ở Kaśmir, Ngài Thế Thân trở về Gandhāra giảng Đại-tì-bà-sa luận, sau mỗi lần giảng Ngài đúc kết thành một kệ tụng, trải qua thời gian có tất cả 600 bài tụng căn bản. Sau đó, thể theo lời thỉnh cầu của Tăng chúng Nhất-thiết-hữu bộ ở Kaśmir, Ngài viết thêm 8.000 kệ, giải thích, kết hợp tất cả lại thành Luận Câu-xá. Mục đích của Luận nhằm:

1- Loại bỏ tư tưởng bộ phái.
2- Loại bỏ tư tưởng cố chấp.
3- Loại bỏ tư tưởng khen mình chê người.

V. CẤU TRÚC LUẬN CÂU-XÁ

A/ PHÂN LOẠI PHÁP

Các pháp (dharma) trong vũ trụ chia ra làm 2 loại chính: Hữu vi (saṃskṛta) và Vô vi (asaṃskṛta). Hữu vi có 4 loại, gồm 72 pháp. Vô vi có 3 pháp. Tổng cộng 75 pháp (xem Phụ lục).

Hệ thống Ba (3) Khoa:

  • Uẩn (skandha) – 5.
  • Xứ (āyatana) – 12.
  • Giới (dhātū) – 18.

– Uẩn (skandha): Sự chứa nhóm (uẩn/ group), khiến che mờ chân tánh quang minh sáng suốt (ấm/ 陰), có 5 uẩn: 1) sắc, 2) thọ, 3) tưởng, 4) hành, 5) thức.
[Bát-nhã Tâm kinh: “…Quán chiếu ngũ uẩn giai không…” (không 5 uẩn)].

– Xứ (āyatana): Còn gọi là nhập. 6 căn: mẳt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; kết hợp, tiếp xúc (Hán dịch là nhập, tạo thành một phạm trù mới, gọi là xứ) với 6 trần (cảnh): sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp; thành 12 xứ/nhập.
[Bát-nhã Tâm kinh: “…Vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp…” (không 12 xứ)].

– Giới (dhātū): 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; kết hợp 6 trần (cảnh): sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp; thành thức (vijnana) phân biệt:
– Nhãn căn <=> sắc trần –> nhãn thức (mắt).
– Nhĩ căn <=> thanh trần –> nhĩ thức (tai).
– Tỷ căn <=> hương trần –> tỷ thức (mũi).
– Thiệt căn <=> vị trần –> thiệt thức (lưỡi).
– Thân căn <=> xúc trần –> thân thức (thân).
– Ý căn <=> pháp trần –> ý thức (ý).
6 căn + 6 trần + 6 thức = 18 giới.
[Bát-nhã Tâm kinh: “…Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới…” (không 18 giới)].

Năm (5) Sự:

Bốn phạm trù hữu vi (72) cùng với một phạm trù vô vi (3) thành 75 pháp, được phân loại thành 5 sự:

  • Sắc pháp.
  • Tâm pháp.
  • Tâm sở pháp.
  • Tâm bất tương ưng hành pháp.
  • Vô vi pháp.

B/ THUYẾT NHÂN QUẢ

1. Sáu (6) Nhân (six causes):

  • Năng tác nhân.
  • Câu hữu nhân.
  • Đồng loại nhân.
  • Tương ưng nhân.
  • Biến hành nhân.
  • Dị thục nhân.

a) Năng tác nhân (empowering): Tất cả các loại nhân góp phần gián tiếp hoặc trực tiếp tạo ra quả.

b) Câu hữu nhân (co-existing): Nhân đồng thời tồn tại, góp phần tạo quả. Ví dụ: nước, gạo, nồi, lửa để nấu, đều là câu hữu nhân để cho quả là cơm chín.

c) Đồng loại nhân (of the same kind, same category): Như gạo là đồng loại nhân với cơm chín.

d) Tương ưng nhân (associating): Mắt thấy quả cam, đó là nhận thức thị giác (nhãn thức) khởi tác dụng, nhưng đồng thời lòng tham muốn ăn cũng sinh khởi, dẫn đến kết quả là ăn cam.

e) Biến hành nhân (all pervading, universal): Những sai lầm đều bắt nguồn từ những nguyên nhân có mặt thường xuyên tác động trong người là tham, sân, si là ba thứ phiền não cơ bản.

f) Dị thục nhân (vipaka): Biến đổi rồi chín mùi. Ví dụ: hạt giống cam lúc gieo trải qua bao biến đổi mới mọc thành cây cam, rồi đến quả cam chín. Hạt giống cam là dị thục nhân của cây cam, của quả cam chín.

2. Bốn (4) Duyên:

  • Nhân duyên.
  • Thứ đệ duyên.
  • Tăng thượng duyên.
  • Sở duyên duyên.

a) Nhân duyên: Duyên là những điều kiện để cấu thành các hiện tượng về tâm cũng như thân. Nhân tức là hạt giống từ đó sinh ra quả. Duyên là một điều kiện. Khi nói Nhân duyên thì Nhân là một thứ Duyên, một điều kiện để tác thành. Điều kiện đầu tiên là hạt giống. Ví dụ: chúng ta có chủng tử Phật tánh, tức hạt giống giác ngộ, đó là duyên thù thắng, gọi là Nhân duyên.

b) Thứ đệ duyên: Còn gọi là Đẳng vô gián duyên. Thứ đệ là có trước có sau. Đẳng là như nhau, bình thường, đều đều. Vô gián nghĩa là không gián đoạn. Sự hình thành nào cũng cần được liên tục, không gián đoạn. Ví dụ: sự tu học cần được tiếp tục ngày này sang ngày khác, không gián đoạn thì mới thành công.

c) Tăng thượng duyên: Tăng là thêm, thượng là trồi lên. Tăng thượng duyên là những điều kiện (duyên) giúp vun trồng và tưới tẩm thêm cho hạt giống đầu phát triển. Nếu hạt giống của niềm tin được chăm sóc chu đáo, thì niềm tin đó ngày càng lớn. Duyên tăng thượng có 2 trường hợp: thuận và nghịch.
[“Gần mực thì đen…”].

d) Sở duyên duyên: Sở duyên là đối tượng. Nếu không có đối tượng thì không có chủ thể; như niềm tin thì có đối tượng của niềm tin, tuyệt vọng cũng có đối tượng của tuyệt vọng. Đối tượng đó gọi là Sở duyên (object), còn chủ thể gọi là Năng duyên (subject). Ví dụ: đau khổ phải có một đối tượng mới hiện hành, như lo âu về tương lai, thân phận, lo sợ thi rớt, mất việc… Đối tượng đó gọi là Sở duyên duyên.

3. Năm (5) Quả:

  • Tăng thượng quả.
  • Sĩ dụng quả.
  • Đẳng lưu quả.
  • Dị thục quả.
  • Ly hệ quả.

a) Tăng thượng quả: Quả sinh ra do sức tăng thượng của Năng tác nhân, đây là kết quả hoạt động của nhiều nhân nên cũng gọi là Cộng quả.

b) Sĩ dụng quả: Cũng gọi là Sĩ phu quả, Công dụng quả. Chỉ cho quả do nhân Câu hữu và nhân Đồng loại mang lại, vì sức của nó mạnh nên gọi là Sĩ dụng quả, ví như sức người (sĩ) dùng lực tạo ra.

c) Đẳng lưu quả: Cũng gọi Y quả, Tập quả. Quả có cùng một tính chất với nhân, tức là quả của Đồng loại nhân. Như nhân lành sinh quả lành, nhân ác sinh quả ác,

d) Dị thục quả: Quả báo cảm được do nghiệp thiện, ác đã tạo ở đời trước; vì quả khi chín (thục) thì tính chất lại khác (dị) với nhân nên gọi là Dị thục.

e) Ly hệ quả: Quả dựa vào đạo lực giải thoát của Niết-bàn mà chứng được, quả nầy tạo nên bởi 6 nhân.

C/ THUYẾT CỰC VI

Cực vi tiêu biểu cho một quan điểm số lượng của sự hiện hữu. Thuyết này phát triển vào thời gian sau này. Thuyết cực vi cho rằng có 3 loại cực vi:

  • Vi tế cực vi.
  • Hữu hình cực vi.
  • Vi trần cực vi.

D/ TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT

Trạch diệt (pratysaṃkhyā nirodha) tức Niết-bàn, là mục đích của người tu học Phật pháp. Niết-bàn là trạng thái giải thoát; có 2 loại: 1) Hữu dư y niết-bàn, 2) Vô dư y niết-bàn. Đại thừa (Mahāyāna) phát triển thêm: 3) Vô trụ xứ niết-bàn, 4) Tánh tịnh niết-bàn.

E/ PHÁ NGÃ

Phẩm cuối cùng (phẩm 9) của Luận Câu-xá là phẩm “Phá ngã”. Phật giáo chủ trương phá trừ những chấp trước có một thật ngã (ātman; ego) thường hằng mà các trường phái triết học, tôn giáo trước thời Phật thường quan niệm.

VI. NỘI DUNG LUẬN CÂU-XÁ

Như đã biết, Luận này nhằm mục đích phá thiên chấp của các bộ phái để làm sáng tỏ chân lý của giáo pháp. Toàn bộ luận chia làm 9 phẩm:

  1. Phẩm Phân biệt giới.
  2. Phẩm Phân biệt căn.
  3. Phẩm Phân biệt thế gian.
  4. Phẩm Phân biệt nghiệp.
  5. Phẩm Phân biệt tùy miên.
  6. Phẩm Phân biệt hiền thánh.
  7. Phẩm Phân biệt trí.
  8. Phẩm Phân biệt định.
  9. Phẩm Phân biệt ngã.

Chín phẩm này nhằm thuyết minh 2 điều:
1- Tám phẩm đầu: Thuyết minh sự tướng của các pháp.
2- Phẩm Phá ngã: Thuyết minh lý vô ngã.

Tổng hợp, Luận thuyết minh 4 nghĩa chính:
1- Thể dụng của vũ trụ vạn hữu (phẩm Giới và Căn).
2- Nhân và quả của mê (các phẩm 3, 4 và 5).
3- Nhân và quả của ngộ (các phẩm 6, 7 và 8).
4- Vô ngã (phẩm 9).

VII. TÓM TẮT

1. Luận thư của Phật giáo nói chung và Câu-xá luận nói riêng góp phần lớn trong việc phá tà, hiển chánh.

2. Luận Câu-xá có tính hệ thống hóa, có tính thẩm quyền và hoàn thiện, hệ thống hóa tư tưởng Nhất-thiết-hữu bộ, đóng vai trò quan trọng trong Luận tạng.

3. Mục đích của luận Câu-xá nhằm giúp người Huynh Trưởng GĐPT đoạn trừ phiền não cố chấp, tư tưởng bộ phái, khen mình chê người, giúp phát sinh trí tuệ và hoằng truyền chính pháp.

oOo

PHỤ LỤC 1:
75 PHÁP THEO CÂU-XÁ LUẬN
(TT. Thích Nhuận Châu)

I. SẮC PHÁP 色法 Rūpāṇi (Form) {11}
01 Cakṣus nhãn eye
02 Śrotra nhĩ ear
03 Ghrāṇa tỵ nose
04 Jihvā thiệt tongue
05 Kāya thân body
06 Rūpa sắc visible
07 Śabda thanh sound
08 Gandha hương smell
09 Rasa vị taste
10 Spraṣtavya xúc touch
11 Avijñapti-rūpa 無表色 vô biểu sắc gesture unrvealing of intent
II. TÂM PHÁPCitta (Mind) {1}
12 Citta tâm mind
III. TÂM SỞ PHÁP
a/ ĐẠI ĐỊA PHÁP 大地法 Mahābhūmika (Major Groundings) {10}
13 Vedanā thọ Pleasure/pain/neutral
14 Saṃjñā tưởng associative-thinking
15 Cetanā volition
16 Sparśa xúc contact sensory
17 Chanda    dục desire
18 Mati (prajñā)  huệ discernment
19 Smṛti niệm memory/mindfullness
20 Manaskāra 作意 tác ý attention
21 Adhimukti (adhimokṣa) 勝解 thắng giải confident resolve
22 Samādhi định meditative concentration
b/ ĐẠI THIỆN ĐỊA PHÁP 大善地法 Kuśalamahābhūmika (Advantageous Major Groundings) {10}
23 Śraddha tín faith/trust
24 Virya căn vigor
25 Upekṣa xả equanimity
26 Hrī tàm [inner] shame
27 Apatrāpya quý embarrassinent
28 Alobha 無貪 vô tham lack of greed
29 Advesa 無嗔 vô sân lack of hatred
30 Ahiṃsā 不害 bất hại non-harmfulncss
31 Praśrabdhi 輕安 khinh an serenity
32 Apramāda 不放逸 bất phóng dật carefulness
c/ ĐẠI PHIỀN NÃO ĐỊA PHÁP 大煩腦地法 Kleśa-mahābhūmika (Mental Disturbance Major Groundings) {6}
33 Moha (mūḍhi) si confusion
34 Pramāda 放逸 phóng dật carelessness
35 Kausīdya 解怠 giải đãi lethargic negligence
36 Āśraddhya 不信 bất tín lack of faith / trust
37 Sthyāna 惽沈 hôn trầm mental fogginess
38 Auddhatya 掉擧 trạo cử restlessness
d/ BẤT THIỆN ĐỊA PHÁP 不善地法 Akuśala-mahābhūmika (Nonadventageous Major Groundings) {2}
39 Āhrīkya 無慚 vô tàm shamelessness
40 Anapatrāpya 無愧 vô quý non-embarrassment
e/ TIỂU PHIỀN NÃO ĐẠI ĐỊA PHÁP 小煩腦大地法 Paritta-kleśa-mahābhūmika (Secondary Mental Disturbance Major Groundings) {10}
41 Krodha 忿 phẫn anger
42 Upanāha phú enmity
43 Śaṭṭhya (śāṭhya) xan guile
44 Īrṣyā tật envy
45 Pradāsa não [verbal] maliciousness
46 Mrakṣa hại resist recognising own faults
47 Mātsarya 慳悋 khan lận selfishness
48 Māyā xiểm deceit
49 Mada cuống conceit
50 Vihiṃsā kiêu harmfulness
f/ BẤT ĐỊNH ĐẠI ĐỊA PHÁP 不定大地法 Aniyata-mahābhūmika (Indeterminate Major Groundings) {8}
51 Vitarka tầm initial mental application
52 Vicara tứ [subsequent] discursive thought
53 Kaukṛtya 惡作悔 ác tác/ hối remorse
54 Rāga tham appropriational intent
55 Māna  mạn arrogance
56 Pratigha sân aversion
57 Vicikitsā     nghi doubt
58 Middha 睡眠 thuỳ miên torpor
IV. TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH PHÁP 心不相應行法 Citta-viprayukta-saṁskāra-dharmāḥ (Embodied-conditioning dissociated from Mind) {14}
59 Prapti đắc [karmic] accrual
60 Aprapti 非得 phi đắc [karmic] divestment
61 Sabhāgatā 眾同分 chúng đồng phận commonality of species
62 Asaṃjñika 無想 vô tưởng [realm of] thoughtless beings
63 Asaṃjñi-samāpatti 無想定 vô tưởng định attainment of thoughlessness
64 Nirodha-samāpatti 滅想定 diệt tưởng định attainment of cessation
65 Jīvita (jīvitendriya) 命根 mạng căn life-force
66 Jāti sinh birth
67 Sthiti trụ continuity/abiding
68 Jarā dị aging/decay
69 Aniyatā diệt impermanence
70 Nāma-kāya 名身 danh thân ‘name’ body
71 Pada-kāya 句身 cú thân ‘predicate’ body
72 Vyañjana-kāya 文身 văn thân ‘utterance’ body
V. VÔ VI PHÁP 無為法 Asaṁskṛta-dharmāḥ (Unconditioned Dharmas) {3}
73 Ākāśa 虛空 hư không spatiality
74 Pratisaṃkhyā-nirodha 擇滅 trạch diệt cessation through understanding
75 Apratisarnkhyā-nirodha 非擇滅 phi trạch diệt cessation without understanding

oOo

PHỤ LỤC 2:
75 PHÁP THEO CÂU-XÁ LUẬN
(Phật Học Phổ Thông – HT. Thích Thiện Hoa)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.