Gia Huấn Ca (Tác giả: Nguyễn Trãi)

TVGĐPT – Gia Huấn Ca là một tập sách gồm những bài thơ chữ Nôm nhiều thể loại (thất ngôn, lục bát, song thất lục bát) tùy đoạn, viết liên tục gồm 797 câu, được tác giả gọi là “bài ca” dạy người trong nhà, mục đích khuyên dạy đạo đức, đối nhân xử thế trong gia đình và ngoài xã hội, được người đời truyền tụng từ lâu và tương truyền cho là của Nguyễn Trãi (1380-1442). Tuy nhiên một thời gian dài vẫn còn những tranh cãi vể tác giả đến hiện nay vẫn chưa ngã ngũ. Có luận thuyết cho rằng Gia Huấn Ca là sáng tác của Yên Thái Tôn Sư hay Lý Văn Phức (1785-1849), người đã viết “Nhị thập tứ hiếu”, và tên tác phẩm này là “Phụ châm”, tức là bài thơ thứ nhất trong Gia Huấn Ca. Cũng có những chứng liệu đưa ra rằng Gia Huấn Ca là bản “Lê triều Nguyễn tướng công Gia Huấn ca” (黎 朝 阮 將 公 家 訓 歌) thuộc Quan Văn Đường tàng bản đời Lê (ảnh dưới).

Trọn vẹn nội dung Gia Huấn Ca – theo thiển ý chủ quan của Thư Viện GĐPT – gồm 6 bài (không đánh số): Dạy vợ con (với nhiều tiểu mục); Dạy con ở cho có đức; Dạy con gái phải có đức hạnh; Vợ khuyên chồng; Dạy học trò ở cho phải đạo; và Khuyên học trò phải chăm học. Điều lý thú là trong Gia Huấn Ca sử dụng rất nhiều những câu cách ngôn, ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian Việt Nam khiến ai đọc được Gia Huấn Ca lần đầu cũng thầm nghĩ: “Vậy mà lâu nay mình không biết những tục ngữ, thành ngữ này từ đâu!”. Trên internet hiện có nhiều tài liệu nhưng một phần là thiếu (nội dung) và cũng có những bản tự ý chỉnh sửa nội dung theo từ ngữ thời hiện đại. Dưới đây Thư Viện GĐPT đăng tải lại trọn vẹn tác phẩm này (với một câu bị thiếu – không rõ lý do, trong bài ‘Dạy con gái phải có đức hạnh’) và tạm tuân theo sự “mặc định” lâu nay của truyền thuyết xem đây là tác phẩm của Ức Trai NGUYỄN TRÃI.

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê quán làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về ở làng Ngọc Ổi, (xã Nhị Khê, Hà Tây nay là Hà Nội). Ông là con trai của Thái học sinh Tiến sĩ Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, tức cháu ngoại Quan tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi là một đại danh hào văn hóa đất Việt, một anh hùng dân tộc từng tham gia vào công cuộc khởi nghĩa của Nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách thống trị của nhà Minh, là quân sư đắc lực hiến kế sách chống giặc và soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Những danh tác của ông để lại như: Dư Địa chí, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân Trung Từ Mệnh tập… nhưng được biết đến nhiều nhất là bản “Bình Ngô đại cáo” ông viết sau khi Nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm, một bản tuyên cáo được xem như bản ‘Tuyên Ngôn Độc Lập’ thứ hai của dân tộc Việt sau bài “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt. Năm 1442, toàn thể gia đình ông bị xử “tru di tam tộc” trong vụ oan án Lệ Chi Viên mà trong chúng ta ai cũng đã từng nghe biết. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã hạ chiếu ân xá cho bậc công thần.

oOo

GIA HUẤN CA

LỜI MỞ ĐẦU
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ
Hễ làm người dạy kỹ thì nên
Phấn son cũng phải bút nghiên
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.

DẠY VỢ CON

Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt
Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông
Một vừa hai phải thì xong
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì.
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình
Hạt mưa chút phận lênh đênh
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm
Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn
Thấy mùi hoa bướm nghểnh, ong chào
Miệng đời dê diếu biết bao
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh.
Đem người trước lấy mình ngắm lại
Khôn ba năm đừng dại một giờ
Đua chi chén rượu câu thơ
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc
Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy
Khi tối tăm đèn phải phân minh
Hoặc khi hội hát linh đình
Được lời dạy đến thì mình hãy ra
Ra phải có mẹ già em nhỏ
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.
Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc
Mua bán đừng điêu trác đong đưa
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi
Đừng đảo điên có nói làm không
Giàu sang cũng chớ khoe ngông
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai
Cầm cân, tạo hoá đổi dời
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai?
Đừng học cách tham lời đặt lãi
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay
Dễ dàng nợ phải lay nhay
Đến đầu đũa quá e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết
Hễ điều gì nói ít mới hay
Lân la giắt rợ, giắt rây
Đã hư công việc lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi
Buổi bán xong liệu vội ra về
Cửa nhà trăm việc sớm khuya
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ
Tiếc thầm đứng ngẩn ngồi ngơ
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan
Ai vào rác ngập ướt chân
Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách giữ gìn thơm sạch
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ
Đồ ăn thức nấu cho vừa
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch
Cũng học dần thói cách người ta
Vá may giữ nếp đàn bà
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai
Ăn nhiều ăn ít cho rồi
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.

Với cha mẹ
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy
Đừng trành hanh bên ấy, bên này
Cù lao đội đức cao dày
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở
Muốn cho ta sáng sủa hơn người
Ân cần kẽ tóc chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
Đừng nặng nhẹ tiếng chì tiếng bấc
Đừng vùng vằng mặt vực mặt lưng
Có thì sớm tiến trưa dâng
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận
Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu
Kiệm hay phong cũng liệu tuỳ ngơi
Đừng điều tranh cạnh chia bai
Xấu trong làng nước, để cười mai sau.

Với chồng
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái
Lại chẳng nên mặt tái mày tăm
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
Sách có chữ “nhập gia vấn huý”
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc
Chồng nói ra nhiếc móc chê khen
Nói càn như ở bậc trên
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa
Dở dói ra nát cửa tan nhà
Chữ “tuỳ” là phận đàn bà
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu liên
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ
Chớ nghiêng đầu ngảnh cổ thiệt thân
Duyên may gặp được văn nhân
Thuộc câu “tương kính như tân” làm lòng.
Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.

Với vợ lẽ
In lấy chữ tào khang chi nghị
Đừng mang câu đố kỵ chi thường
Dây bìm cho tựa cành vàng
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu “đường cái” xưa nay cũng vậy
Trai làm nên lấy bảy lấy ba
Lấy về hầu hạ nhà ta
Thêm hoè nẩy quế có là con ai?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế
Kém ta nên phận ế hoa ôi
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài
Ấm no nên xót lấy người bơ vơ.
Thế mới phải phép thờ phu tử
Ấy mới là đạo xử hài hoà
Chữ “tuỳ” rắn khúc nghi gia
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.

Với bạn hữu của chồng
Kìa những đứa mặt thường cau có
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo
Cất lời nặng cỡ đá đeo
Đã ra thét tớ, lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu
Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra
Dù trăm giận thì ta để bụng
Có trọng người mới trọng chồng ta
Tuỳ người thết đãi rượu trà
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường.

Với chị em
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu
Lại phải tường trong đạo chị em
Đạo em thì phải trông lên
Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một
Khi nắng mưa ấm sốt đỡ tay
Với nhau như bát nước đầy
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà.
Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường
Nức danh ba nước, treo gương muôn nhà.

Với trong họ ngoài làng
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu
Xem như con yêu dấu chẳng sai
Đồng quà, tấm bánh hôm mai
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm
Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.

Với những khi sản dục
Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ
Lại cần điều cư xử cho tuyền
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền
Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ
Học cổ nhân huấn tử trong thai
Dâm thanh chớ để vào tai
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!
Từ xuất nhập, khởi cư, hành động
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang minh
Cho bằng phẳng thế chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng
Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần
Chiều sương chớ để áo quần
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn
Kiêng khem trăm sự vuông tròn
Trước mình yên dạ, sau con ít sài.

Với con cái
Ngày con đã biết chơi biết chạy
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao
Đừng cho chơi búa, chơi dao
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
Lau cho sạch không hay dầm nước
Ăn cho vừa đừng ước cao lương
Mùa đông tháng hạ thích thường
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước
Yêu cho đòn bắt chước lấy người
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen gần đèn thì sáng
Ở bầu tròn ở ống thì dài
Lạ gì con có giống ai
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn nói dở
Với con đừng chửi rủa quá lời
Hay chi thô tục những người
Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây gãy cối
Mở miệng nào có ngọn có ngành
Đến tay Bụt cũng không lành
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
Ấy những thói ở đời ngông dại
Khôn thì chừa mới phải giống người
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.

Với dâu rể
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối
Giàu đừng tham, khó đói chớ nề
Dâu hiền rể thảo tìm về
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng
Dù dở hay đừng giọng mỉa mai
Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt biết ai cho vừa!

Với tôi tớ
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận
Mực trì gia đặt hẳn ân uy
Bọt bèo là phận nô tỳ
Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví “chiều người lấy việc”
Chẳng há nên ráo riết người ta
Hay thì nó ở lâu ra
Dở thì nó bước nào ta bận gì.
Một đôi kẻ phải khi lỡ độ
Có thì cho chẳng có thì thôi
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.

Thờ cúng
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh
Đạo qủy thần thì kính viễn chi
Nắng mưa giải kiết có khi
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác
Đã bói ra bỏ nhác sao đành
Cao tay mấy kẻ có danh
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu tà nào phạm chính
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ
Kìa như mấy kẻ tăng – ni
Thôi tuần cúng Phật lại khi vào hè.
Nam-mô Phật rù rì hai chữ
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam
Miệng rằng chừa độc chừa dâm
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
Kẻ trốn việc ở chùa cũng có
Kẻ lộn chồng trốn chúa cũng nhiều
Gian ngoan rất mực làm kiêu
Mượn danh hòa thượng lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái
Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi
Trước sau có bấy nhiêu lời
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa
Ngày ngày mắng sớm đòn trưa
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim
Diễn Nôm cho tiện mà xem
Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.

DẠY CON Ở CHO CÓ ĐỨC

Lấy điều ăn ở dạy con
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần
Ở cho có đức có nhân
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ
Thương người ôm dắt trẻ thơ
Thương người tuổi tác già nua bần hàn
Thương người quan quả, cô đơn
Thương người lỡ bước lầm than kêu đường
Thấy ai đói rách thì thương
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân
Người ta phải bước khó khăn đến nhà
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm” gọi là làm duyên.
May ra ở chốn bình yên
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho.
Miếng khi đói, gói khi no
Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng
Của là muôn sự của chung
Sống không, thác lại tay không có gì.
Ở phải có nhân có nghì
Thơm danh vả lại làm bia miệng người
Hiền lành lấy tiếng với đời
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua
Bụi trần giũ sạch thực là từ đây
Vàng trời tuy chẳng trao tay
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi
Mai sau bạc chín tài mười
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
Kìa người ăn ở cơ cầu
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình
Thấy ai đói rách thì khinh
Cách nào là cách ích mình thì khen
Hứng tay dưới với tay trên
Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng
Nói thì mở miệng như rồng như tiên
Gan thì quá ngỡ sắt đèn
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra
Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi
Nói lời lại nuốt lấy lời
Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn
Kẻ thì mắc phải vận nàn
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro
Kẻ thì phải lính, phải phu
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền
Kẻ thì mắc phải dịch ôn
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta
Sờ sờ trước mắt thực là thương thay
Khuyên ai chớ bắt chước rày
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời
Nghe thì mới phải là người
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.

DẠY CON GÁI PHẢI CÓ ĐỨC HẠNH

Phận làm gái ở cùng cha mẹ
Lòng phải chăm học khéo học khôn
Một mai xuất giá hồi môn
…. (thiếu một câu).
Phận bồ liễu giá trong như ngọc
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai
Xưa nay hầu dễ mấy người
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
Phận làm gái này lời giáo huấn
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền
Kiêm Tứ Đức: dung, công, ngôn, hạnh.
Công là đủ mùi xôi thức bánh
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện Tam Cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo
Làm tôi con chỉ trung, chỉ hiếu
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo
Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu
Cũng như bên thờ chúa, thờ cha.
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ
Trong đại hôn áo mũ thân nghênh.
Kính người vợ phép ở Lễ kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo
Trên từ đường trăm việc trơn tru
Từ cơm canh, cá thịt, mọi đồ
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch
Bằng nhường ấy thần minh lai cách
Câu “hữu trai” nên tiếng để đời.
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi
Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét
Siêng năng thì trăm việc đều nên
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
Việc nhà có kẻ ăn người ở
Từ trong ngoài như bảo trước sau
Đồ làm ăn ngày để đâu đâu
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ
Siêng năng thì chăm chú việc ta
Lũ nô tỳ trai gái năm ba
Cơm chưa chín không nên khua xáo
Đứa xay thóc, đứa thì giã gạo
Đứa bếp thì chủ việc cơm
Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại
Lời dạy rắng “giữ lửa chẳng chơi”
Cho hay đại phú bởi trời
Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khoá giữ bề thu phát
Chắt chiu mà dè dặt mới nên
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền
Đừng cậy có, ăn càn tiêu dở
Bữa thường phải xem cho con ở
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi
Đồ thết đãi xem cho tử tế
Trong nhà phải bảo nhau có ý
Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn
Chiều rộng hẹp tuỳ cơ ứng biến
Đạo trì gia đãi khách khác màu
Trần trần một mực nên đâu
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì.
Phận là gái về làm dâu cả
Việc ta chăm giữ chốn từ đường
Lấy ngọn tần lá tảo lễ thường
Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp
Xem bằng nhường quý khách, gia tân
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng
Khi có họ xem cho tử tế
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể
Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu
Không bỏ sót là tình yêu dấu
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân
Trọn đời đẹp mặt phu nhân
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ
Muôn một khi đá đổ bồ hôi
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi
Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang
Song ta nâng giấc giữ giàng
Điều ăn uống phải hỏi han tuỳ thích.
Lòng người ước chim, gà, cá, thịt
Của nên ăn dù đắt cũng mua
Tuỳ người ưa thức ngọt chua
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn
Lòng yêu thân phải cẩn từng khi
Tấm lòng trời đất chứng tri
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng
Một đôi khi chân bước ra đường
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao
Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha
Chồng hoà yêu chuộng, họ hoà kính chung.
Dạy những kẻ đàn bà con gái
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước
Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe
Lúc ham mê cơm rượu say nhè
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng thêm trân tráo
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm
Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam
Hay gì yến bắc, nhạn nam
Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
Phận là gái ít đường giáo hối
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn
Miệng sai ngoa nói những giọng càn
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính
Đạo cha mẹ đã không biết kính
Bề anh em lại chẳng hay nhường
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy
Việc giáo hình đến phải ra tay
Hổ thân tiếng khắp đông tây
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu
Lấy làm gương chớ bắt chước chi
Một niềm kính thuận vô vi
Trước là khỏi nhục sau thì nên danh.
Thương những kẻ đàn bà mất dạy
Lại gặp chồng sợ vợ như ma
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
Bề họ mạc không hay kính nể
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn
Đường gia tài khôn biết vén vun
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo.
Gà eo óc, phòng loan uốn éo
Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô
Việc trong ngoài khí dụng các đồ
Mặc con cái gặp sao hay vậy.
Bề nội ngoại những phô loài ấy
Phúc đức kia còn nói làm chi
Khen cho bà nguyệt khéo xe
Anh này sánh với chị kia đương vừa.

VỢ KHUYÊN CHỒNG

Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe
Trình anh thân thiếp vụng về
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si.
Quản bao lỗi nọ, lầm kia
Chiều thanh vẻ quý dám bì được đâu
Thiếp vâng lời dạy trước sau
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng tiền nhân
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh
Bốn phương chàng hãy kinh doanh
Dùi mài kimh sử tập tành cung tên
Công danh mong đợi ơn trên
Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm.
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì
Thế gian lắm kẻ điên mê
Áo quần lam lũ người thì như ma
Thiếp xin chàng lánh cho xa
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân
Đào tơ liễu yếu gửi thân anh hùng
Xưa nay gái đội ơn chồng
Hiển vinh bỏ lúc cơm sung cháo dền
Ơn trời công đã được đền
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà.

DẠY HỌC TRÒ Ở CHO PHẢI ĐẠO

Nào là những kẻ học trò
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây
Hai công đức ấy nặng thay!
Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao.
Trình vâng từ tốn ngọt ngào
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh
Bánh quà, cá thịt, cơm canh
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
Bữa thường dâng ngọt dâng bùi
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn
Kể từ lúc hãy còn thai dựng
Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay
Mong cho biết ngửa biết ngây
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo
Lo cho biết lẫy biết bò
Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ
Ba năm nhũ bộ còn thơ
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào?
Chữ rằng “sinh ngã cù lao”
Bể sâu khôn ví trời cao khôn bì
Nhưng mà gặp buổi bình thì
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu
Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi
Lại sinh ra gặp phải thì can qua
Đôi khi kém đói thiết tha
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
Việc nhà việc cửa chuyên tay
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn
Chân le chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi
Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng
Có công trời hẳn dành công để chờ
Bây giờ loạn lạc bơ vơ
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh
Loạn rồi lại có khi bình
Khi bình ta hãy cá kình giương vây
Say sưa kinh sử chớ khuây
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu
Bể thánh sâu cố gia công lội
Rừng nho gai thẳng lối xông pha
Ba năm chợt đổi khôi khoa
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa
Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề
Đọc sách là chí nam nhi
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
Ấy là thủa trước nam nhi
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: “loạn độc thư cao”
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa
Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì
Mai ngày treo biển tên đề
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời tước nước hiển vinh
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy
Bõ khi nghèo khổ chua cay
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành
Một triều là một thanh danh
Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào
Đã má đỏ, lại má đào
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
Đủ mùi những thức cao lương
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi
Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường
Phấn trần, tranh cánh, giá gương
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng
Hầu non: con mới, tiểu đồng: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu
Giàu sang khác vẻ trăm chiều
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.

KHUYÊN HỌC TRÒ PHẢI CHĂM HỌC

Trước cửa Khổng cung tường chín chắn
Bước lên đường vào cửa ung dung
Trăm quan, tôn miếu lạ lùng
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật
Ắt làm người thời chẳng hư sinh
Phú cho tai mắt thông minh
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền
Bực thánh hiền ấy không dám ví
Song làm người có chí thì nên.
Khai tâm từ thủa thiếu niên
Hiếu Kinh tiểu học trước liền cho thông
Đọc cho đến Trung Dung, Đại Học
Tứ Thư rồi lại đọc Ngũ Kinh
Thi, Thư, Dịch, Lễ đều tinh
Xuân Thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà
Xem cho đến Bách Gia, Chư Tử
Bảy mươi pho sử đều thông
Sớm khuya ở chốn văn phòng
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách
Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương
Một đèn, một sách, một giường
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước
Với tu, tề, bình, trị đều yên
Cương thường giữ hiếu làm nên
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức gia đình phải giảng
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi
Lý cho cách vật, trí tri
Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ
Đạo thầy thứ nhất là Nho
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.
Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ
Những là người áo mũ đai cân
Đời nào cũng chuộng nghề văn
Mưu mô dẹp loạn, kinh luân mở nền.
Pho kinh sử làu chuyên nghề học
Chốn thư đường từng đọc hôm mai
Quan sang chẳng có riêng ai
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên
Làm nên trọng chức cao quyền
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao
Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh.
Tóc treo giường ấy: Tôn Sinh
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông.
Nọ ngươi Trác Dận dầu không
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng
Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho.
Lý Sinh chẳng quản công phu
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc
Sau làm nên tước lộc quan sang
Làm trai chí khí hiên ngang
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông.
Lão Tuyền tuổi cả gia công
Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề  Nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy
Đỗ thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình.
Đường vân trình dù sau dù trước
Chữ công danh ai khác chi ai
Hễ người có chí có tài
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ
Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh
Thư trung lắm kẻ hiển vinh
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền nhiều lúa
Nghĩ mình rằng có của thì hơn
Thư trung kim ngọc vô vàn
Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai?
Thư trung có gái tuyệt vời
Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy dọc
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương
Thư trung tuấn vũ điêu tường
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây.
Ai có chí đêm ngày luyện tập
Theo người xưa cho kịp mới nên
Học cho hy thánh hy hiền
Việc gì thông biết chẳng phiền luỵ ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức
Khắp bốn phương đồn nức thời danh
Chiếu nêu cao giá ngọc lành
Xe loan có thủa, cung doanh có ngày./.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.