Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka). Trong chữ Theragatha thì tiền ngữ thera có nghĩa là “người xưa” hay “người đi trước” và hậu ngữ gatha có nghĩa là thi phú và nguyên chữ theragatha thì có nghĩa là “các bài thơ của người xưa”. Kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, nhưng thiển nghĩ cách dịch này không được sát nghĩa lắm. Chữ Khuddaka thì có nghĩa là [các bài kinh] nhỏ.
Bải kinh hay đúng hơn là bài thơ Sunita này đã được Gabriel ‘Jivasattha’ Bittar, một người tu tập theo Phật Giáo Theravada và cũng là giáo sư tiến sĩ khoa học giảng dạy về môn “Tiến hóa chủng loại” (Phylology) tại các đại học Genève và Lausanne (Thụy Sĩ) dịch sang tiếng Pháp vào khoảng năm 1998. Bài kinh này cũng đã được một nhà sư Theravada người Mỹ là Thinassaro Bhikkhu dịch sang tiếng Anh năm 1994. Bản Việt dịch dưới đây được dựa vào cả 2 bản dịch này. “Nhân vật” Sunita cũng thấy nhiều lần nói đến trong kinh Jataka (Kinh về tiền thân Đức Phật).
Bàn dịch tiếng Pháp mang tựa là Le Témoignage de Sunita (Nhân chứng Sunita), bản dịch tiếng Anh mang tựa là Sunita the Outcast (Sunita một người thuộc giai cấp tiện dân). Các bài kinh trong Tiểu Bộ Kinh dường như tương đối ít được quan tâm đến hơn so với các kinh khác, có lẽ là vì khá đa dạng và không đồng đều, đôi khi quá ngắn(?); dầu sao thì cũng có nhiều bài rất sâu sắc và siêu việt. Một số kinh được trình bày dưới hình thức thơ (riêng trong tập Trưởng Lão Tăng Kệ đã có đến 264 bài thơ với tất cả là 1.291 tiết). Hầu hết các bài kinh trong Tiểu Bộ Kinh thường có nguồn gốc rất xưa.
Sunita – Sutta
Câu chuyện về người nghèo khổ Sunita
Theragatha, XII.2 – PTS ; Theragatha, 620-631
Tôi sinh ra trong một gia đình thấp hèn
Cực khổ, dăm bữa đói một bữa no
Sinh sống với một nghề hèn mọn:
Quét dọn và nhặt hoa héo rơi xuống từ các bệ thờ(1)
Chẳng ai màng đến tôi; mọi người khinh miệt và hay rầy mắng tôi
Hể gặp ai thì tôi cũng phải cúi đầu vái lạy
Thế rồi một hôm, tôi được diện kiến con người ấy
Một con người đã hoàn toàn Giác Ngộ
Một đoàn Tỳ-kheo bước theo sau
Người Siêu Phàm ấy đi vào thị trấn Ma Kiệt Đà(2)
Tôi bèn vứt bỏ quang gánh(3)
Chạy đến gần chắp tay và cúi đầu vái lạy.
Nào ngờ, với tấm lòng ngập tràn từ bi
Con Người Siêu Phàm ấy đã vì tôi mà dừng lại
Tôi bèn phủ phục dưới đôi chân vị Thầy nhân từ
Lùi lại và đứng sang một bên
Tôi bèn cất lời xin con người xứng đáng nhất trong thế gian này
Hãy cho phép tôi được bước theo chân Ngài.
Và vị Thầy từ bi và nhân từ đó
Với tất cả sự trìu mến, cất lời với tôi rằng:
“Này người Tỳ-kheo của ta, hãy bước đến bên cạnh ta!”
Và như thế đó tôi được trở thành một người tu hành.
….
Theo lời dạy của vị Thầy,
Tôi tìm nơi an trú trong một khu rừng hoang vắng,
Hầu có thể tu tập theo những lời chỉ dạy của Ngài.
….
[Một hôm] với nụ cười trên môi, vị Thầy bảo với tôi rằng:
Với nghị lực và một tấm lòng tinh khiết
Sống thanh đạm và luôn chủ động chính mình
Ấy là cách giúp mình trở thành một con người cao cả
Và mở ra cho mình con đường thánh thiện.
— oOo —
(1) Bệ thờ của những người Bà-la-môn.
(2) Ma-kiệt-đà: Magadha.
(3) Quang gánh dùng để hốt rác.
— oOo —
Vài lời ghi chú của người dịch:
Những vần thơ thật đơn sơ, chân thật và cảm động này của bài kinh đã làm dậy lên những xúc cảm bàng hoàng và thật sâu xa khiến chính người chuyển ngữ cũng không sao kềm giữ được những nỗi niềm xao xuyến bùng lên trong lòng mình, nên dù có muốn cũng chẳng còn một lời nào để gửi gắm thêm. Chỉ ước mong rằng những vần thơ của bài kinh này có thể khơi động được chút từ bi nào đang ẩn chứa trong đáy tâm hồn của mỗi người trong chúng ta.
Bures-Sur-Yvette, 17.01.2015
HOÀNG PHONG chuyển ngữ