Ngôi “làng làm Tổ” ở Quảng Trị

“Viễn sơn tác án thế xuất hùng Tăng”
(HT. Thích Trí Thủ).

Làng Trung Kiên (tỉnh Quảng Trị) có từ đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), khởi nguyên từ một đạo thủy quân của chúa Nguyễn cử ra trấn áp miền phên dậu phía Bắc với nhà Trịnh. Đạo thủy quân đó gồm 5 cánh gọi là Ngũ Kiên: Tiền Kiên, Hậu Kiên, Tả Kiên, Hữu Kiên và Trung Kiên. Năm cánh thủy quân này đóng quân tại vùng đất thuộc tổng Bích La, phủ Triệu Phong (nay thuộc xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), lâu ngày lập thành làng và tồn tại mãi cho đến ngày nay.

Làng Trung Kiên có 21 họ tộc, dân làng thuần nông, nghèo nhưng rất hiếu đạo, biết kính trọng thờ cúng Phật thần, Tổ tiên ông bà. Ngày nay đến làng Trung Kiên, người ta dễ dàng nhận thấy hàng loạt cơ sở văn hóa tâm linh như đình, chùa, miếu, vũ, đàn âm hồn… Đây là nét sinh hoạt văn hóa tâm linh và đạo lý thờ phụng thuần theo tín ngưỡng Phật Giáo rất đặc trưng mà có lẽ không nhiều nơi như làng Trung Kiên vẫn còn lưu giữ được.

Chùa Linh Quang làng Trung Kiên do Tổ Đạo Minh – Phổ Tịnh sáng lập năm Gia Long thứ I (1802) qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Năm 1941 trùng tu chùa gỗ; năm 1975 phục dựng sửa chữa do chiến tranh tàn phá; năm 1980, Hòa Thượng Thích Trí Thủ trùng kiến trong điều kiện kinh tế hạn chế, hết sức khó khăn; năm 2000 nhân dân trong làng cùng Tăng, Ni, Phật Tử đồng hương và các Tổ đình, tự viện có gốc tích từ làng Trung Kiên đã cùng nhau phát động đại trùng tu xây dựng chùa bê-tông cốt sắt bền vững đến nay đã hoàn thành khang trang, bề thế. Chùa Linh Quang còn lưu giữ được nhiều pháp bảo xưa quý như chúc bản thờ tại hậu tổ và đại hồng chung đều thuộc năm Gia Long thứ I (1802).

Chùa Linh Quang tại làng Trung Kiên.

Làng làm Tổ

“Quảng Trị Trung Kiên, Thừa Thiên Giạ Lê” là câu nói cửa miệng của Chư Tôn Đức thiền môn xứ Thuận Hóa. Tôi tìm hiểu và được các Thầy giải thích vì làng Trung Kiên có nhiều người đi tu lắm, mà hễ đã đi tu thì phần đông trở thành cao tăng thạc đức. Nghe vậy và cũng chỉ biết vậy. Nhưng khi tôi xuất gia lại đúng vào ngôi chùa mà vị Tổ khai sơn là người làng Trung Kiên và Bổn sư của tôi cũng là người làng Trung Kiên, thế nên tôi mới gia tâm tìm hiểu thêm về ngôi làng lịch sử này.

Nói “Quảng Trị Trung Kiên…” là nói ngôi làng Tổ. Bởi từ ngôi làng Trung Kiên này đã sản sinh nhiều vị Tổ sư khai sáng các Tổ đình, tự viện tại Quảng Trị, Huế và nhiều tỉnh thành khác; hoặc những vị cao tăng thạc đức có đóng góp đáng kể cho lịch sử phát triển Phật Giáo Việt Nam. Khởi đầu là Tổ Đạo Minh – Phổ Tịnh, trú trì chùa Báo Quốc (Huế), sáng lập chùa Linh Quang giáo hóa đồ chúng tại làng Trung Kiên, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tâm linh, đạo đức và cốt cách của người dân khiến bản tính hiền hòa, hiếu thuận, danh thơm vang vọng đến triều đình, nên được vua sắc ban tên hiệu chùa là “Sắc Tứ Linh Quang Tự”. Dấu ấn địa linh được thể hiện rõ nét nhất là đời nào cũng có những người con làng Trung Kiên xuất gia trở thành Cao tăng, rường cột của Giáo Hội như Tổ Tánh Thiên – Nhất Định, khai sơn Tổ đình Từ Hiếu (Huế); Tổ Trừng Nhã – Chí Thanh, khai sơn chùa Giác Lâm (Huế), Tổ Ngộ Tánh – Phước Huệ, khai sơn chùa Hải Đức (Huế) và trùng kiến chùa Hải Đức (Nha Trang); Tổ Tâm Tịnh khai sơn Tổ đình Tây Thiên (Huế) cùng chư vị Hòa Thượng Trừng Khiết – Diệu Quang, khai sơn chùa Phổ Tế (Huế); Hòa Thượng Hưng Dụng, trùng kiến chùa Kim Tiên (Huế); Hòa Thượng Chơn Đạo – Chánh Thống, trùng kiến chùa Quy Thiện (Huế)…

Chùa Sắc Tứ Linh Quang trong đợt trùng tu năm 2002.

Gần đây nhất, trong các Cao tăng xuất thân từ làng Trung Kiên, phải kể đến Hòa Thượng Thích Trí Thủ, trú trì chùa Báo Quốc (Huế), khai sơn tu viện Quảng Hương Già Lam, quận Gò Vấp, Sài Gòn. Ngài là người có công lao to lớn trong Phong trào Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam, nhất là phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo, tự do tín ngưỡng, bảo vệ đạo pháp và dân tộc vào những năm đầu thập niên 60 thế kỷ XX. Ngoài các Phật sự bộn bề, Hòa Thượng còn dịch kinh, trước tác, biên soạn nhiều tác phẩm Phật học nổi tiếng, đặc biệt là Luật tạng – hành trang không thể thiếu cho các Tăng, Ni hậu học ngày nay. Suốt cuộc đời phụng sự cho đạo pháp và dân tộc, Hòa Thượng luôn tâm nguyện: “Những gì tôi làm lợi ích cho đạo pháp tức là lợi ích cho dân tộc, những gì tôi làm lợi ích cho dân tộc tức là lợi ích cho đạo pháp”.

Xuất phát Tăng tài

Thường nghe “địa linh sinh nhân kiệt”. Đất làng Trung Kiên phải là đất linh thiêng, chùa làng Trung Kiên phải là chùa Tổ và non Mai hùng vĩ với sông Hãn ngọt lành đã un đúc nên người dân làng Trung Kiên bao đời nay yên lành trong ý đạo tình đời. Những vị cao tăng thời cận đại sinh ra từ làng Trung Kiên đã góp phần không nhỏ trong việc dựng xây và phát triển ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng Thích Trí Thủ đã cô đọng ý nghĩa nguồn mạch linh thiêng này bằng cái nhìn của bậc thượng nhân:

Lưu thủy vô huyền thời văn giải điệu
Viễn sơn tác án thế xuất hùng Tăng.

Tạm dịch:

Nước chảy chẳng dừng theo thời tiến phát
Núi xa tạo án đời xuất Tăng tài.

Hòa Thượng Thích Trí Thủ – người làng Trung Kiên, Quảng Trị.

oOo

(Lược trích lại từ bài
“Làng Trung Kiên: Chiếc nôi sản sinh nhiều Cao tăng thời cận đại”
của tác giả Trí Năng đăng trong Giác Ngộ Online năm 2008).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.