TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC TÂM
[1928-1988]
Phó Đại Diện kiêm Đặc Ủy Hoằng Pháp
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Thừa Thiên.
Cố Vấn Giáo Lý Gia Đình Phật Tử tỉnh Thừa Thiên.
(Đồng soạn giả tài liệu tu học Phật Pháp đầu tiên của GĐPT).
oOo
Cố Hòa Thượng Thích Đức Tâm pháp danh Nguyên Tánh, pháp tự Đức Tâm, pháp hiệu Hải Tạng, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 44. Ngài thế danh Trần Hoài Cam, sanh ngày 12 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928) tại làng Bồi Thành, xã Hương Lưu, tỉnh Thừa Thiên, nay thuộc Phường Vĩ Dạ – Huế. Thân phụ là Cụ ông Trần Hy, thân mẫu là Cụ bà Huỳnh Thị Lương. Ngài là con trai độc nhất trong một gia đình thâm tín Tam Bảo.
Bởi là con một nên cha mẹ một mực thương yêu và kỳ vọng Ngài nối dõi tông đường mai hậu. Thời niên thiếu Ngài được theo Nho học và sau đó chuyển qua tân học để trau dồi kiến thức thế gian, ngõ hầu phục vụ tốt hơn cho gia đình, xã hội. Thế nhưng, như có túc duyên Phật Pháp sâu dày nên mới 14 tuổi, Ngài đã có chí nguyện xuất gia học đạo.
Buổi đầu khai tâm học Phật, Ngài được thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Thủ, một cao tăng lúc bấy giờ tại chùa Ba La Mật – Huế. Năm 1943, sau một năm xuất gia, Ngài được Bổn Sư cho thọ Sa-di giới tại Giới Đàn chùa Báo Quốc – Huế và đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh, pháp tự Đức Tâm, thể nhập đời thứ 44, dòng thiền Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 dòng thiền Thiệt Diệu Liễu Quán.
Từ đó, Ngài tinh tấn tu học, thúc liễm thân tâm và được theo học lớp Sơ đẳng tại Sơn môn Phật Học Đường Linh Quang – Huế. Nhờ trí thông minh và sự chăm chỉ học tập nên một năm sau, Giáp Thân – 1944, Ngài được chuyển qua học lớp Trung đẳng tại Phật Học Đường Báo Quốc – Huế. Trong thời gian này, lớp Cao đẳng và Siêu đẳng đã chuyển lên Đại Tòng Lâm Kim Sơn, thôn Lựu Bảo, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, chỉ còn lại hai lớp Sơ đẳng và Trung đẳng. Nhưng hai lớp này rồi cũng bị gián đoạn thời gian khi cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ vào cuối mùa Đông năm Bính Tuất – 1946. Mãi cho đến đầu năm Mậu Tý – 1948, Phật Học Đường Báo Quốc mới tái khai giảng và mở thêm lớp Cao đẳng. Ngài lại tiếp tục theo học lớp Cao đẳng này.
Năm 1949, Ngài được đăng đàn thọ Tỳ-kheo và Bồ-tát giới tại Giới Đàn chùa Báo Quốc. Giới đàn này do Hòa Thượng Tòng Lâm Pháp Chủ Trung Việt Thích Tịnh Khiết làm Đàn Đầu truyền giới. Sau khi đắc pháp, dự nhập vào hàng Tăng Bảo, Ngài lại càng gia công khổ luyện tu học để mau chóng vận dụng sở tu, sở học của mình phụng sự chúng sanh, báo đáp Tổ đức, Bổn Sư.
Khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, Ngài đã cùng Quý tôn túc sáng lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam; đồng thời cùng với Quý Hòa Thượng: Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí biên soạn cuốn Phật Pháp 4 cấp[*] để làm giáo trình tu học cho tổ chức Gia Đình Phật Tử. Đây là cuốn sách Phật Pháp đầu tiên được Hòa Thượng cùng với Quý Hòa Thượng biên soạn rất sớm và nhiều công phu với chương trình giảng dạy Phật Pháp và áp dụng Phật Pháp vào đời sống thực tế cho thế hệ trẻ được trình bày có phương pháp khoa học, có hệ thống chặt chẽ; rất dễ học và dễ hiểu. Cuốn Phật Pháp 4 cấp đã đáp ứng kịp thời cho sự tu học của tổ chức Gia Đình Phật Tử. Từ ấy đến nay đã hơn 50 năm trôi qua, chương trình tu học của Gia Đình Phật Tử tuy có sửa đổi, nhưng nội dung cuốn sách vẫn còn nguyên giá trị và rất cần thiết cho tổ chức Gia Đình Phật Tử. Cũng từ năm Tân Mão – 1951 trở đi, Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên cung thỉnh Hòa Thượng làm Cố Vấn Giáo Lý và phụ trách giảng dạy Phật Pháp cho các khóa huấn luyện Huynh Trưởng, các lớp tu học thường kỳ của tổ chức này.
Ngoài ra, sau khi trường Bồ Đề Huế được thiết lập và khai giảng vào năm 1952 do Hòa Thượng Minh Châu làm Hiệu trưởng, Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên lại công cử Hòa Thượng phụ trách giảng dạy giáo lý cho trường Bồ Đề. Có thể nói, đây là thời kỳ có nhiều cơ duyên thuận lợi nhất để Hòa Thượng thực hiện chí nguyện hoằng pháp độ sinh một cách tích cực. Hòa Thượng đã thực sự thành công khi áp dụng môn Phật Pháp vào chương trình giáo dục cho thế hệ trẻ trong tổ chức Gia Đình Phật Tử và học sinh tại các trường Bồ Đề.
Năm 1954, 26 tuổi, Ngài được cử giữ chức vụ Tổng thư ký Nguyệt san Liên Hoa, một cơ quan ngôn luận hoằng pháp nổi tiếng của Phật Giáo Trung Phần lúc bấy giờ. Cũng năm này, Ngài làm Giảng sư cho Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần; Giáo sư tại Phật Học Đường Báo Quốc và các trường Trung Học Bồ Đề – Huế.
Năm 1958, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên giao trách nhiệm Phó trụ trì Quốc tự Diệu Đế – Huế.
Năm 1963, cuộc vận động cho tự do tôn giáo và công bằng xã hội phát khởi, chế độ độc tài đảng trị bị sụp đổ nửa năm sau đó. Phật Giáo Việt Nam đã thoát khỏi cuộc Pháp Nạn bởi những đàn áp dã man của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngày 30-12-1963 và những ngày đầu năm 1964 sau đó, một Đại Hội Phật Giáo toàn Miền Nam Việt Nam gồm 11 giáo phái và hội đoàn Phật Giáo Nam – Bắc tông được tổ chức trọng thể tại chùa Xá Lợi – Sài Gòn và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Ngài là Phó trưởng phái đoàn Đại Biểu Phật Giáo miền Trung vào tham dự Đại Hội. Sau Đại Hội, Ngài được đề cử làm Đặc Ủy Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1964, Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên lại cử Ngài về trụ trì chùa Diệu Minh. Ngôi chùa này do Hòa Thượng Trí Uyên, đệ tử của Hòa Thượng Trừng Thông – Viên Thành và là pháp huynh của Hòa Thượng Trí Thủ kiến tạo từ năm Nhâm Tý – 1912 trên đất làng Bồi Thành. Sau đó, Ngài đứng ra tu tạo lại chùa Diệu Minh và rồi đổi lại tên chùa là Pháp Hải.
Năm 1965, Ngài được mời làm Tổng thư ký Đại Giới Đàn Vạn Hạnh tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu, Huế.
Năm 1969, nhằm mục đích phát huy tinh thần đạo pháp với dân tộc; cũng như tinh thần Phật Giáo với tư tưởng hòa bình của nhân loại, Ngài đã đề nghị với Giáo Hội tỉnh [Thừa Thiên] và miền [Vạn Hạnh] cần thành lập một Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo tại Huế. Ý kiến của Ngài đã được hai cấp Giáo Hội đồng tình chấp thuận và Trung Tâm Văn Hóa Liễu Quán đã được khởi công xây dựng trong dịp lễ vía Thành Đạo, mồng 8 tháng Chạp năm Kỷ Dậu (15-1-1970). Ngài được đề cử giữ trọng trách làm Giám đốc Trung Tâm.
Song song với việc vun bồi trí tuệ cho hàng hậu tấn, Ngài còn quan tâm đến đời sống của Tăng Ni. Ngài xây dựng, mở rộng Châu Hoằng Liên Xã ở Lại Bằng trong việc khai hoang đồng Chàm để canh tác, trồng trọt hoa màu.
Năm 1972, Ngài được cung cử chức vụ Phó đại diện kiêm Đặc Ủy Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1973, Đại Giới Đàn Phước Huệ – Nha Trang tổ chức, Ngài giữ chức vụ Phó chủ khảo. Cũng năm này, Ngài được Bổn sư Thích Trí Thủ trao kệ đắc pháp, pháp hiệu Hải Tạng, với bài kệ:
月 輪 穿 海 水
花 影 掃 階 塵
德 心 無 物 我
清 淨 證 常 身
Phiên âm:
Nguyệt luân xuyên hải thủy
Hoa ảnh tảo giai trần
Đức tâm vô vật ngã
Thanh tịnh chứng thường than.
Nguyên Hồng dịch:
Vầng trăng in đáy biển
Bóng hoa phẩy bụi thềm
Đức Tâm phi vật ngã
Thanh tịnh ấy chân thân.
Năm Giáp Dần – 1974, nhằm mở rộng phương diện hoằng pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào Phật Tử ở vùng xa xôi hẻo lánh có nơi dâng hương, lễ bái, cầu nguyện, Hòa Thượng lại dốc sức thành lập trang trại Châu Hoằng và kiến thiết thêm Châu Hoằng Liên Xã Tự tại một vùng cận sơn thuộc thôn Lại Bằng, xã Hương Sơn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Đầu tháng Tư (nhuận) năm Giáp Dần (27-5-1974) công cuộc kiến tạo chùa được khởi công xây dựng. Sau khi công trình xây dựng hoàn tất, Hòa Thượng giao cho Đại Đức Thích Giác Hải đệ tử của Đại Lão Hòa Thượng Tâm Ấn – Viên Quang (1894-1977) chùa Châu Lâm, Huế lên trụ trì. Được một thời gian thì Đại Đức Giác Hải viên tịch, sau đó Hòa Thượng Nguyên Truyền – Tâm Thọ chùa Vạn Phước, Huế trụ trì.
Năm 1978, Hòa Thượng được Chư Tôn Đức trong sơn môn cử làm Trưởng môn phái Tổ đình Từ Hiếu – Huế.
Năm 1984, sau khi nhị vị Hòa Thượng Tâm Như – Trí Thủ và Tâm Huệ – Thanh Trí viên tịch, Giáo Hội và môn đồ suy cử Hòa Thượng lên trụ trì chùa Báo Quốc – Huế. Bốn năm làm trụ trì, Hòa Thượng không ngừng dốc sức tu bổ cho ngôi Tổ đình thêm phần rạng rỡ, và tận tụy chăm lo đến đời sống hằng ngày của Chư Tăng một cách đầy đủ giữa thời buổi kinh tế khó khăn.
Đầu xuân năm 1987, Hòa Thượng lâm bệnh nặng, linh cảm nhân duyên hoằng pháp sắp mãn, mùa đông năm Đinh Mão (1987), Ngài đã đến tham yết các chốn Tổ đình, các vị tôn túc, pháp hữu trước khi trở gót về Tây Phương.
Ngài an nhiên thị tịch lúc 9 giờ 45 phút ngày 13 tháng Giêng năm Mậu Thìn, tức ngày 29 tháng 2 năm 1988, trụ thế 60 tuổi đời với 40 tuổi đạo.
Cả cuộc đời tu học và hoằng pháp của Ngài là một tấm gương sáng cho tất cả thế hệ mai sau. Ngài vun trồng trí tuệ cho đàn hậu học, thắp sáng đuốc tuệ cho cả nhân sinh và nỗ lực đóng góp sức mình cho sự nghiệp chung của Phật Giáo. Pháp thân tuệ mạng của Ngài vẫn còn thắm đượm mai sau.
NGUỒN GỐC & XUẤT XỨ TÀI LIỆU:
Môn Đồ Pháp Quyến (chùa Pháp Hải) phụng soạn.
[*] Tên tập sách là “Phật Pháp” – thường được Đoàn Viên Gia Đình Phật Tử gọi là “Phật Pháp 4 cấp” (Hướng Thiện, Sơ Thiện, Trung Thiện, Chánh Thiện của Ngành Thiếu). Hiện nay đây là một trong những tập tài liệu tu học căn bản chính thức xưa cũ nhất của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam – Thư Viện GĐPT chú thích.