Tiểu sử Cố Ni Sư Thích Nữ Diệu Không

TIỂU SỬ

CỐ NI SƯ THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
(Sư Bà Diệu Không)
[1905-1997]

Đồng sáng lập Hội An Nam Phật Học.
Sáng lập những Ni viện – Ni Trường đầu tiên của Ni giới Việt Nam.
Sáng lập các Cô Nhi Viện – Ký Nhi Viện của Phật Giáo Việt Nam.
Đồng sáng lập Nhà in Liên Hoa – Tạp chí Liên Hoa Nguyệt San.

oOo

Cố Ni Sư thế danh Hồ Thị Hạnh, húy Trừng Hảo, hiệu Nhất Điểm Thanh, sinh năm 1905, là con gái út của quan Đông Các Đại Học Sĩ Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.

I. THÂN THẾ VÀ THIẾU THỜI:

Xuất thân từ một danh gia vọng tộc, gặp buổi giao thời giữa hai nền văn hóa cũ và mới nên từ tấm bé Người đã được hấp thụ một nền giáo dục dung hòa cả hai truyền thống Đông-Tây. Thân phụ muốn cho du học ở Pháp, nhưng Người không đi. Chí hướng của Người là khôi phục truyền thống Á Đông và nâng cao tinh thần phụ nữ.

Quận chúa Hồ Thị Hạnh trước khi thành Sư Cô Diệu Không.

Bản hoài cao rộng đó thật khó mà thực hiện nếu không thoát ly đời sống gia đình nhỏ hẹp, bởi vậy Người đã nhiều lần xin cha mẹ xuất gia, nhưng vào thập niên 1920, ở Huế chưa có chùa Ni, chỉ có các bà lớn tuổi mới được vào chùa Tăng làm ‘Dì vải’ nấu bếp. Người lại là con gái út của một vị đại thần đương thời, được nâng niu như cành vàng lá ngọc, cha mẹ sẽ không bao giờ cho phép. Trước trở ngại lớn lao đó, Người đành ở nhà cho trọn hiếu, chờ dịp thuận tiện.

Song thân mong Người yên bề gia thất, cứ khuyến khích tham dự các tiệc tùng, dạ hội, nhưng Người một mực nuôi chí xuất trần. Thế rồi năm 23 tuổi (1928), vì cảm từ tâm của song thân, Người phát bi nguyện độ sinh, bằng lòng kết duyên với cụ Cao Xuân Xang để nuôi đàn con dại bơ vơ vừa mất mẹ. Thời gian không lâu ông qua đời. Từ đây duyên trần nhẹ gánh, Người vừa nuôi đàn con côi, vừa làm Phật sự đắc lực.

II. XUẤT GIA:

Năm 1932 (27) tuổi, Người được Hòa Thượng Giác Tiên trụ trì Tổ đình Trúc Lâm truyền Thập Giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không nhưng vẫn đễ tóc để làm Phật sự. Lúc bấy giờ, Người thường xuyên giao dịch với người Pháp trong chính quyền bảo hộ với tư cách đại diện Hội An Nam Phật Học mà Người là một trong các Sáng Lập Viên.

Một tấm hình thuở thiếu thời ‘còn để tóc’ làm Phật sự.

Sau khi thọ Thập Giới 12 năm, vào mùa thu năm Giáp Thân (1944), Người được thọ Tam đàn Cụ Túc tại Đại Giới Đàn Thuyền Tôn do Hòa Thượng Giác Nhiên (về sau là Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất) làm Đàn Đầu.

III. CÔNG HẠNH:

Sau khi thọ giới Sa-di-ni, Người bán tư trang và vay mượn thêm để xây cất Ni viện đầu tiên cho nữ giới có chỗ tu học, đó là Ni viện Diệu Đức. Sư Bà còn góp phần sáng lập và trùng tu nhiều chùa Ni và tịnh viện khác tại Thừa Thiên – Huế như Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân, Kiều Đàm, Định Huệ, Đông Thuyền, Hồng Đức, Liên Trì, Liên Hoa; Bảo Thắng ở Hội An; Bảo Quang ở Đà Nẵng; Tịnh Nghiêm ở Quảng Ngãi; Ni viện Diệu Quang ở Nha Trang.

Tại miền Nam, Sư Bà là người góp công thành lập Ni trường đầu tiên ở Sa Đéc, Ni viện Từ Nghiêm, Dược Sư, Diệu Giác, Diệu Tràng; Diệu Pháp tại Hố Nai, Long Thành. Sư Bà còn góp công rất nhiều trong việc xây dựng Viện Đại Học Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam là Đại Học Vạn Hạnh, cùng với Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Minh Châu, Hòa Thượng Nhất Hạnh và Cư sĩ Ngô Trọng Anh… là những vị khai sáng đầu tiên. Ngoài ra, cơ sở Kiều Đàm tại đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) cũng do Sư Bà cổ động xây cất.

Ngoài các cơ sở văn hóa và chùa, Ni Sư còn góp công đắc lực khai sáng Cô Nhi Viện Tây Lộc, Huế và các cô, ký nhi viện trên khắp thành thị, thôn quê miền Trung từ 1964 trở đi. Năm 1952, Ni Sư góp phần đắc lực trong việc sáng lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách Phật Giáo và Nguyệt san Liên Hoa, do Hòa Thượng Đôn Hậu làm chủ nhiệm, Hòa Thượng Đức Tâm làm chủ bút, Ni Sư làm quản lý và biên tập viên; đây là tờ báo Phật Giáo sống lâu nhất tại miền Trung.

Ngoài công tác hộ trì chánh pháp và làm từ thiện xã hội, Ni Sư còn dịch thuật, trước tác và cộng tác với nhiều tạp chí Phật Giáo như Viên Âm, Giác Ngộ, Từ Quang, Liên Hoa… Các bộ kinh luận quan trọng do Ni Sư dịch gồm có Thành Duy Thức Luận, Du-già Sư Địa Luận, Lăng-già Tâm Ấn, Di-lặc Hạ Sinh Kinh, Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận Lược Giải (của Long Thụ Bồ Tát), Hiện Thật Luận (của Thái Hư Đại Sư) v.v… Ngoài ra, Ni Sư còn sáng tác rất nhiều tập thơ văn khuyến tu và giáo dục phụ nữ, những câu chuyện đạo lý…

Mặc dù Phật sự đa đoan, Ni Sư luôn luôn học hỏi, tham cứu kinh sách Đại – Tiểu Thừa và thường nhập thất tham thiền tại chùa Khải Ân, núi Châu Ê. Tuy mang thân nữ, Ni Sư gần như không có thói nhi nữ thường tình mà Phật thường thống trách. Nguyện của Ni Sư là đời đời mang thân nữ để độ cho nữ giới và không cầu sinh Tịnh Độ: “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi Ta Bà”. Có lẽ do hạnh nguyện ấy mà đến đâu Ni Sư cũng được phụ nữ đoanh vây, già trẻ lớn bé đều yêu mến. Và cũng có lẽ nhờ Ni Sư am hiểu nhân tình, tùy cơ giáo hóa, có biện tài vô ngại; nhưng trên tất cả, chính nhờ tâm hồn Ni Sư bao dung quảng đại, bình đẳng đối với người thân cũng như sơ, xa cũng như gần. Câu thơ Người làm: “lưới trời bao phủ một tình thương” đủ nói lên chính xác tâm hồn Ni Sư vậy.

Mặc dù là vị hộ trì đắc lực cho Chư Tăng tu học, mặc dù được đặc cách học chung với Chư Tăng trong các lớp giảng đầu tiên tại Huế, Ni Sư không vì vậy mà xao lãng Bát Kỉnh Pháp. Ngược lại, đối với Chư Tăng, Ni Sư luôn luôn kính nể, dù là một vị Tỳ-kheo tân thọ giới hay chỉ một chú Tiểu, Ni Sư cũng đối xử lễ độ và hết lòng nâng đỡ. Đối với Ni chúng, Ni Sư là bạn của tất cả mọi người, ai gần Người cũng kính mến như bậc Thầy, do bởi bản tánh bình dị, uy nghi khả kính.

Tính bình dị của Ni Sư quả là một tấm gương cho Ni giới: xuất thân từ nơi phú quý, mà khi vào chùa, Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn buông xả; đối với bốn vật cần dùng là ẩm thực, y phục, sàng tòa và dược phẩm Ni Sư không chú trọng, có gì tốt đẹp đều đem cúng dường bố thí. Trước khi ngọa bệnh, nơi thường trú của Ni Sư tại chùa Hồng Ân chỉ là một gian nhà thấp u tối, nhưng Người không hề quan tâm sửa chữa, vì tâm hồn Ni Sư luôn để vào những chương trình rộng lớn hộ trì Tam Bảo, phục vụ chúng sinh đương thời và mai hậu.

IV. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG:

Năm 1978, sau một cơn bệnh, Ni Sư đã an nhiên thị tịch, được Chư Tăng vây quanh tiếp dẫn. Nhưng khi thời kinh hộ niệm chấm dứt, Sư Cô Bảo Châu đau đớn khóc thét lên, Ni Sư bèn giật mình tỉnh dậy vì bi nguyện độ sinh. Kể từ đó, Người thường dạy: “Khi đã thấy cảnh Tịnh Độ rồi thì tôi xem cảnh đời này toàn là giả”. Có lẽ nhờ thấy giả mà Người kham nhẫn được mọi sự. Gần 5 năm già yếu ngọa bệnh, Ni Sư luôn luôn hoan hỷ với mọi người, đón nhận sự săn sóc chu đáo của tất cả các đệ tử, sự chữa trị tận tình của các bác sỹ, Tây y như Thầy Hải Ấn, Bác sỹ Lê Văn Bách và quý vị bác sỹ, y tá Bệnh viện Trung Ương Huế; Đông y như Sư Tuệ Tâm và quý vị y, bác sỹ tại Tuệ Tĩnh Đường Diệu Đế.

Mặc dù già bệnh, tinh thần Ni Sư luôn minh mẫn cho đến giây phút cuối, mỗi khi ai có việc quan trọng đến thỉnh ý, Ni Sư đều dạy những lời khuyên hết sức sáng suốt. Cách 2 tháng trước khi viên tịch, Ni Sư còn phát tâm cúng dường cơ sở Hồng Đức cho Giáo Hội để sử dụng trong việc đào tạo Tăng tài.

Như một trái cây chín muồi, như đi cuộc hành trình đã đến đích, Ni Sư an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 2 giờ khuya ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu (tức ngày 23 tháng 9 năm 1997), hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp.

Một di ảnh của Cố Ni Sư lúc sinh tiền.

Một đời Ni Sư: Ở trong phú quý mà không vướng vinh hoa; học nhiều mà không sở tri chướng; làm thơ mà không là thi sĩ; viết lách mà không là văn nhân; nghiên cứu mà không là học giả; giúp đời mà không là chuyên gia xã hội; thuyết pháp mà không là Pháp sư; tọa thiền mà không là Thiền sư; xây dựng nhiều chùa mà không trụ trì một ngôi nào cả; giữ giới mà không câu nệ; độ người mà không vướng mắc đệ tử; ở cảnh động không mất Thiền, cảnh tịnh không bỏ rơi chúng sinh… Cuộc đời hành đạo của Ni Sư thật đa dạng mà không lưu dấu vết, vì cõi lòng Ni Sư như hư không. Sự nghiệp vật chất Ni Sư lưu lại đã nhiều, nhưng cái đáng nói hơn, cái đáng nói nhất, cái thâu tóm cả cuộc đời Ni Sư – tấm lòng vì pháp và thương tưởng hậu lai – thì lại càng khó tả. Cho nên, dù có nói bao nhiêu về Ni Sư, chúng con vẫn thấy thiếu và có lỗi với Ni Sư, bởi vì cái đáng nói nhất đã không có ngôn từ diễn đạt. Có lẽ hai chữ tôn hiệu của Ni Sư – thượng Diệu hạ Không – đã biểu trưng quá đủ cuộc đời Người, hay nếu dài lời hơn, thì chỉ một câu này: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn sự môn trung bất xả nhất pháp”.

Trước giờ tạm biệt bùi ngùi này, Môn đồ Pháp quyến chúng con đầu thành đảnh lễ xin Ni Sư đừng quên đại nguyện, sớm hội nhập Ta-bà để hoằng dương Chánh Pháp, cứu độ chúng sinh.

Nam Mô Thuận Tịch Từ Lâm Tế Tông Tứ Thập Nhị Thế Trúc Lâm Pháp Phái Húy Thượng Trừng Hạ Hảo Hiệu Diệu Không Ân Sư Giác Linh thùy từ chứng giám.

oOo

NGUỒN GỐC TÀI LIỆU:
Quảng Mẫn chỉnh lý nội dung từ
“Kỷ Yếu Tang Lễ Thích Nữ Diệu Không”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.