TIỂU SỬ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC NGUYÊN
(1877-1980)
Chùa Tây Thiên – Huế
Hòa Thượng pháp danh Trừng Văn, pháp tự Chế Ngộ, pháp hiệu Giác Nguyên; thế danh là Đặng Văn Ngộ, sinh năm Đinh Sửu (1877) tại làng Phủ Trung, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đặng Văn Gần, thân mẫu là cụ bà Cù Thị Tộ(1).
Ngài sinh ra trong một gia đình nhân đức hiền lương, đạo đức truyền thống lâu đời. Năm lên 6 tuổi đã mồ côi cha mẹ, Ngài phải nương tựa dưỡng phụ là một vị quan thái giám thời bấy giờ tên là Nguyễn Đình Huề (Hữu).
Lúc còn nhỏ, Ngài thường theo dưỡng phụ lên chùa Từ Hiếu (Huế), một nơi ký tự hương hỏa của các vị thái giám triều đình, để thắp hương, lễ Phật. Như có duyên lành từ nhiều kiếp, Ngài cảm thấy mến mộ cảnh thiền môn và xin phép dưỡng phụ được xuất gia học đạo. Dưỡng phụ Ngài vui lòng chấp thuận và tích cực hỗ trợ cả tinh thần, vật chất cho Ngài trên bước đường tu học.
Mùa xuân năm Tân Mão (1891), Ngài xin thế độ xuất gia với Hòa Thượng Tâm Tịnh tại chùa Từ Hiếu. Sau 5 năm học đạo, năm Bính Thân (1896), Ngài chính thức được Hòa Thượng Tâm Tịnh hứa khả làm trưởng tử và được thọ giới Sa-di với pháp danh Trừng Văn, tự Chí Ngộ. Những pháp đệ của Ngài là quý Hòa Thượng: Giác Viên; Giác Tiên; Giác Nhiên (Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã viên tịch); Giác Hạnh; Giác Hải; Giác Bổn; Giác Thanh (Hòa Thượng Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã viên tịch).
Năm Quý Mão (1903), Hòa Thượng Tâm Tịnh nhường chùa Từ Hiếu lại cho môn phái, Ngài theo Bổn Sư đến lập thảo lư mang tên Thiếu Lâm Am trên ngọn đồi phía Nam đàn Nam Giao thuộc ấp Thuận Hòa, thôn Dương Xuân hạ, xã Thủy Xuân để tịnh tu đạo nghiệp.
Năm Canh Tuất (1910), Ngài thọ Cụ-túc giới tại Giới Đàn chùa Phước Lâm ở Hội An do Tổ Vĩnh Gia làm Đường Đầu Hòa Thượng, được đắc pháp lúc 33 tuổi, hiệu là Giác Nguyên. Tăng chúng đương thời đã suy tôn Ngài làm thủ tọa chùa Tây Thiên. Đến khi Hòa Thượng Tâm Tịnh viên tịch, Ngài được kế thừa trụ trì để hưng long Phật Pháp và hướng dẫn đồ chúng. Với trách nhiệm mới, Ngài luôn luôn cần mẫn, giới đức tinh nghiêm làm gương mẫu trong đại chúng.
Năm Ất Sửu (1925) do đức độ và uy tín của Ngài mỗi lúc thêm cao, cảm hóa được trên từ vua, quan, đến hàng bao tín đồ Phật Tử; tất cả đã hỗ trợ Ngài xây dựng ngôi thảo am thành một ngôi chùa trang nghiêm tên Tây Thiên Tự để hoằng dương đạo pháp. Năm sau, được sự yểm trợ của vua Khải Định, Ngài xây dựng và an vị tượng Đức Phật A-di-đà uy nghi lộng lẫy do nhà vua cúng dường. Đến đầu niên hiệu Bảo Đại, năm Bính Dần (1926), chùa được vua “sắc tứ” là Tây Thiên Di Đà Tự.
Trên bước đường tu tập, Ngài nổi tiếng là bậc giới đức thanh tịnh, bình dị, khiêm cung và không xao lãng việc giáo hóa độ sanh.
Năm Canh Ngọ (1930), với mục đích đào tạo Tăng tài, truyền thừa Tổ ấn mai sau, Ngài cùng với một số tôn túc, pháp hữu cùng chung chí hướng thiết lập trường cao đẳng Phật học tại chùa Tây Thiên (Cao Đẳng Phật Học Đường Tây Thiên) và cung thỉnh Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp, Bình Định làm Thượng Thủ Giáo Thọ. Những vị được đào tạo tại đây sau này đều trở thành trụ cột của Giáo Hội như quý Hòa Thượng: Bích Phong, Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Thiện Trí… đều ở trong hàng lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam.
Là một trụ trì của Tổ đình, Ngài luôn luôn nêu cao tấm gương đạo hạnh, sách tấn hàng Tăng Ni, Phật Tử noi theo, tuy Ngài là vị có vốn học chưa thể so với các bậc đồng tu khác, nhưng lại có trí tuệ minh mẫn và công phu chuyên trì giới định nghiêm mật. Hàng năm, ngoài ba tháng kiết hạ an cư, Ngài còn kiết thất tu niệm trong những tháng thu – đông. Từ năm Kỷ Sửu (1949) đến năm Giáp Ngọ (1954), Ngài phát nguyện liên tục lễ bái “Hồng Danh Vạn Phật” và trì tụng Tam Bảo Kinh, mặc dù lúc ấy tuổi Ngài quá thất tuần.
Năm Quý Mão (1963) và năm Bính Ngọ (1966), Ngài đã cùng các vị cao tăng xuống đường tuyệt thực để hướng dẫn cuộc đấu tranh bất bạo động chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo và vận động cho tự do, dân chủ. Ngoài ra, Ngài còn đảm nhận làm Giới Sư, Chứng Minh Sư trong các Đại Giới Đàn cũng như các Đại Hội Phật Giáo toàn quốc tại Sài Gòn lúc bấy giờ.
Lễ Phật Đản năm Đinh Mùi (1967), Ngài đứng ra lập Tịnh Nghiệp Đạo Tràng Tây Thiên với sự chấp thuận và hỗ trợ của Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên và miền Vạn Hạnh.
Mặc dù tuổi già sức yếu, hàng ngày Ngài vẫn tinh tấn tu hành, hướng dẫn Tăng Ni, Phật Tử tấn tu huệ học. Các đệ tử của Ngài như quý Hòa Thượng Thiện Hỷ, Nhật Liên, Thiện Châu đều là những bậc pháp khí Đại Thừa, hiển dương chánh pháp cho đến ngày nay. Đối với tín đồ, Ngài ân cần chỉ bảo thực hành pháp môn trì danh niệm Phật để được vãng sanh Tịnh Độ.
Đệ tử của Ngài nhiều lần định tổ chức lễ Thượng Thọ để báo đáp công ơn dạy dỗ trong muôn một, nhưng Ngài đều từ chối và bảo “Hãy dùng số tịnh tài ấy để đúc tượng, sửa chùa, bố thí cho những người nghèo khổ”.
Cuộc đời Ngài cho đến lúc trăm tuổi, không lúc nào không nghĩ đến việc tu hành và lợi lạc quần sanh. Nếp sống giản dị khiêm tốn, tâm hồn trong sáng thanh cao khiến khắp nơi từ lãnh đạo Giáo Hội, các bậc tôn túc Trưởng Lão cùng thời, đến hàng tứ chúng môn đồ ai ai cũng đều cảm kích, tôn phục.
Ngày mùng Một tháng Giêng năm Canh Thân, tức ngày 16 tháng 2 năm 1980, nhằm ngày đầu năm Tết Nguyên Đán, vào lúc 1 giờ sáng, Ngài đã an nhiên thị tịch đi về cảnh Phật; trụ thế 103 tuổi, giới lạp 70 tuổi Hạ.
Hòa Thượng Thích Giác Nguyên sau hơn một thế kỷ làm bậc xuất trần thượng sĩ với sự nghiệp hoằng dương chánh pháp và phục vụ nhân sinh to lớn; một bậc chân tu đạo hạnh; một bậc Tôn Sư từ ái thường che chở, sách tấn Tăng Ni, Phật Tử trên bước đường tu học, vẫn luôn được kính ngưỡng trong lòng mọi người giữa chốn Tùng Lâm Phật Địa./.
—=oOo=—
(1) Có tài liệu ghi thân mẫu Ngài họ Lê (TVGĐPT).
NGUỒN GỐC & XUẤT XỨ TÀI LIỆU:
Trích “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX” – Thích Đồng Bổn chủ biên.