Tiểu sử Đại Sư Thái Hư

TIỂU SỬ

THÁI HƯ ĐẠI SƯ
太 虛 大 師
(1890-1947)

(Vị Tăng Sỹ khởi xướng cuộc Chấn Hưng Phật Giáo đầu thế kỷ XX)

oOo

Thái Hư Đại Sư tục danh Lữ Phái Lâm, sinh ngày 8/1/1890 (18.12. Kỷ Sửu) niên hiệu Quang Tự thứ 15 tại trấn Trường An, huyện Hải Ninh, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa.

Ngài sinh trong gia đình nghề thợ mộc, mồ côi từ thuở ấu thơ, người ốm yếu nhiều bệnh tật, nhờ bà ngoại (Ngoại tổ mẫu) dưỡng nuôi. Bà là một Phật Tử thuần thành, kính tin Tam Bảo, chánh tín, chánh kiến, kim kinh ngọc kệ hôm sớm của lão bà khiến hạt giống Bồ-đề của Ngài được vun quén.

Năm lên 9 tuổi, Ngài theo bà ngoại hành hương chiêm bái Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn cùng các danh lam thắng tích Phật Giáo. Từ đây hạt giống Bồ-đề nẩy mầm và phát triển xinh tươi.

Năm lên 16 tuổi xuân, đất Bồ-đề được vun đắp, cửa Bát-nhã tiếp nhận một Thích Tử vào chốn thiền môn, tháng 3 năm Giáp Thìn (tháng 5/1904), niên hiệu Quang Tự thứ 30, Ngài đăng Phổ Đà Sơn quyết chí cầu đạo giải thoát, xuất gia tu học; nhưng lại đi nhầm thuyền đến huyện Ngô Giang, Ngài tiến thẳng lên ngọn Tiểu Cửu Hoa Sơn, cầu xin xuất gia với lão Khoan Công, lão Khoan Công đưa Ngài về Tứ Minh, đảnh lễ Sư Tổ Tráng Niên lão nhân. Nơi đây Ngài được thế phát xuất gia, trang nghiêm pháp phục cà-sa, trở thành trang Thích Tử, được Hòa Thượng Bổn Sư ban pháp danh Duy Tâm, pháp hiệu Thái Hư.

Tháp Chạp trong năm, Ngài cầu thụ Cụ-túc giới với Trưởng Lão Hòa Thượng Kính An – Ký Thiền, Tổ đình Thiên Đồng, làng Thiên Đồng, ở dưới chân núi Thái Bạch của Ngân huyện (thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang ngày nay). Đại Giới Đàn này có đến hàng trăm giới tử, Ngài là một giới tử trẻ nhất, đối đáp bén nhạy nhất (ký ức lực siêu quần); Trưởng Lão Hòa Thượng Kính An – Ký Thiền ngợi khen là bậc pháp khí Đại Thừa, Huyền Trang tái thế.

Bước đầu tham vấn học Phật, nương nơi Trưởng Lão Hòa Thượng Kính An – Ký Thiền, lão Pháp Sư Kỳ Xương, học Đại Thừa Liễu Nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh và Tông Chỉ Thiên Thai Giáo Quán cùng văn tự thế gian. Ngài thường nghe các bậc lão Pháp Sư đương thời như Đạo Giai, Đế Nhàn… giảng giải các kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Ngoài ra còn tham duyệt các tác phẩm văn học Phật Giáo như Chỉ Nguyệt Lục, Cao Tăng Truyện, Hoằng Minh Tập… Ngài tham cứu thiền, tu học với Trưởng Lão Hòa Thượng Kính An – Ký Thiền. Ký ức lực siêu thường, ứng khẩu lanh lợi như điện chớp, biện tài vô ngại của Ngài làm cho đồng môn học chúng vô cùng thán phục.

Năm Đinh Mùi (1907), vừa tròn 18 tuổi xuân, tại Tổ đình Tây Khê Cổ Tự, Từ Khê, Ngài tham duyệt Đại Tạng Kinh. Khi đọc đến kinh Đại Thừa Liễu Nghĩa Bát Nhã Kinh, Ngài hoát nhiên tỏ ngộ, thân tâm, thế giới thấu suốt, vọng niệm băng tiêu, trải qua hằng giờ như thế mà cảm nhận như trong chốc lát, cho đến ngày hôm sau thân tâm vẫn thanh thản như đang ở thế giới Tịnh Cực Lạc quốc độ.

Năm Kỷ Dậu (1909), Ngài đến Nam Kinh, cùng với Cư Sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật Giáo; tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển; mở trường lớp, nghiên cứu Phật Giáo; bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật Giáo. Đây là thời kỳ đầu phát triển của cư sĩ Phật Giáo.

Cuối đời nhà Thanh, năm Mậu Thân (1908), văn hóa phương Tây bắt đầu du nhập vào đất nước Trung Hoa, các luồng tư tưởng cách mạng nổi dậy như cuồng phong bảo vũ. Đồng môn huynh đệ với Ngài, các vị Pháp Sư trẻ như Hoa Sơn, Kinh Ái… thảy đều hấp thu tư tưởng của trào lưu đương đại, cùng nhau cực lực làm nên cuộc cách mạng Tăng đoàn Phật Giáo, xây dựng xứ sở. Riêng Ngài, lúc bấy giờ vẫn say sưa với đèn sách, mặc cho thế sự thăng trầm, bể dâu thay đổi, tâm Ngài vẫn an nhiên.

Sau đó, nhân đọc các loạt bài của Khang Hữu Vi: “Đại Đồng Thư”, Lương Khải Siêu: “Tân Dân Thuyết”, Chương Thái Viêm: “Cáo Phật Đệ Tử Thư”…, các sách báo phiên dịch từ châu Âu, Ngài mới lập thệ nguyện cứu thế độ sinh, lý tưởng Bồ-tát đạo mang ánh sáng đạo vàng từ bi, trí tuệ vào cuộc đời, trở thành vị Đại Sư làm nên cuộc cách mạng toàn diện của Phật Giáo đương thời và ảnh hưởng tác động khắp các quốc gia Phật Giáo vào đầu thế kỷ 20.

Mùa Đông năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Tuyên Thống thứ nhất, vừa tròn 20 tuổi, Ngài theo Trưởng Lão Hòa Thượng Ký Thiền dự Đại Hội Giáo Dục Phật Giáo tại Giang Tô.

Năm Canh Tuất (1910), Ngài an trú sáu tháng tại tịnh xá Kỳ Hoàn. Mùa thu năm này, Ngài lãnh trách nhiệm giáo sư Trường Tiểu Học Phật Giáo tại Tiểu Vũ Tự, Phổ Đà Sơn. Năm 23 tuổi, Ngài giảng dạy giáo lý Phật-đà trong tỉnh Quảng Châu và được mời nhậm chức trụ trì ngôi già lam Song Khê Tự, Bạch Vân Sơn.

Tháng 3 năm Tân Hợi (4/1911), Đồng Minh Hội Hoàng Hoa Cương khởi nghĩa bạo phát và thất bại, Ngài sáng tác bài thi “Điếu Hoàng Hoa Cương” (弔 黄 花 岗).

Cuối triều đại nhà Thanh, tư tưởng truyền thống Nho gia chủ đạo chiếm ưu thế trong một xã hội phong kiến quân chủ tập quyền, độc tài đã đến lúc phải kết thúc, để lại những vấn đề của một xã hội thối nát. Giai cấp thống trị chiếm phần lớn điền sản; nạn tham nhũng leo thang; giới quan chức triều đình đại đa số hủ bại đọa lạc; đạo đức tâm linh xã hội suy đồi trầm trọng nhấn chìm trong tuyệt vọng. Lực lượng sản xuất chính của xã hội là nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề. Thương nhân cho vay nặng lãi, họ lợi dụng những lúc nông dân gặp lúc khó khăn như thiên tai, sưu thuế cao để bóc lột. Chính quyền Mãn Thanh thối nát và tăng cường nạn bóc lột nông dân. Thuế má, tạp dịch nặng nề khiến đời sống tầng lớp công nông tay lấm chân bùn càng thêm điêu đứng. Chính vì vậy phong trào nông dân nổi dậy liên tục khắp nơi.

Thời đại khoa học văn minh hiện đại châu Âu và Mỹ, trong điều kiện các quốc gia nghèo nàn lạc hậu, không được viện trợ giúp đỡ; bởi những đam mê lợi ích vật chất, ích kỷ tác động dễ tổn thương đối với những quốc gia nhược tiểu, thậm chí còn tệ hơn Trung Quốc.

Niên hiệu Đồng Trị, Hồng Tú Toàn (1814-1864) tự xưng mình là em trai của Đức Chúa Giê-su, sáng lập ra đạo “Bái Thượng Đế” để tập hợp người dân chống lại chính quyền. Ông tự xưng là Thiên Vương, thành lập Thái Bình Thiên Quốc và từng chiếm lĩnh nhiều vùng đất rộng lớn ở miền đông nam Trung Quốc. Nơi nào có dấu chân Hồng Tú Toàn đặt chân cất bước đến, nơi ấy những cơ sở tôn giáo như Phật Giáo, Đạo Giáo đều được xem là “ngoại đạo” và bị phá hủy trong thập kỷ nổi loạn.

Bối cảnh Phật Giáo vào thời hỗn loạn bởi pháp nạn, lòng dân bất an, xã hội sa sút, suy thoái nghiêm trọng. Pháp nạn Phật Giáo trong bối cảnh bên ngoài thế lực ngoại đạo đàn áp; nội tình thì Tăng sĩ yếu kém, quần chúng nhân dân bị bóng đêm mê tín, tà kiến bao phủ khắp.

Đầu xuân Nguyên Đán năm Tân Hợi (1911), tuyên cáo thành lập Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Ngài cùng Pháp Sư Nhân Sơn thành lập “Phật Giáo Hiệp Tiến Hội”, trù bị thiết lập tại Tỳ Lô Tự, Nam Kinh.

Không bao lâu, Trưởng Lão Hòa Thượng Ký Thiền tuẫn giáo vì cuộc vận động cho Phật Giáo tại Bắc Kinh. Chư Tôn Đức Tăng-già, Phật Giáo Đồ cả tỉnh Thượng Hải long trọng cử hành lễ truy điệu. Tại buổi lễ truy điệu trong nỗi khổ niềm đau của Phật Giáo Đồ, Ngài Thái Hư công bố ba điều trọng đại trong đại cuộc cách mạng Phật Giáo đương thời qua ba điểm:

1. Cải cách về giáo lý.
2. Cải cách về giáo chế.
3. Cải cách về giáo sản.

Từ năm 1913 đến năm 1917, sau việc tổ chức Tổng Hội Phật Giáo Trung Hoa tại Thượng Hải và làm chủ bút cho tờ Phật Giáo Nguyệt San không đạt kết quả như ý, Ngài về kiết thất ba năm tại thiền viện Tích Lân núi Phổ Đà. Thời gian này, Ngài nghiên cứu khắp hết kinh luận của các tông phái Phật Giáo, nhưng với hai tông Duy Thức và Tam Luận, Ngài rất lưu tâm. Ở đây, các vị Ấn Quang, Phật Sơn cũng thường lui tới đàm đạo với Ngài.

Ngoài ra, đối với học thuyết Đông, Tây xưa nay Ngài đều phán xét bằng cặp mắt Phật Thừa và đều có viết bài bình luận. Có thể nói, đây là thời kỳ Ngài chuẩn bị một đường hướng mới thích hợp để đáp ứng thời cơ, chấn hưng đạo pháp, xây dựng xứ sở. Chính thời gian này, bộ luận Chỉnh Lý Chế Độ Tăng-già ra đời, đồng thời các luận khác như Thiền Điển Tông, Pháp Giới, Tam Minh cũng lần lượt xuất hiện.

Điểm đặc biệt của Ngài trong thời gian nhập thất: “có một chiều nhập định, nghe chuông lúc đầu vào buổi hoàng hôn, rồi Ngài vào trong Tam Muội. Lúc sau nghe chuông báo xả định, Ngài xả ra mới hay trời đã sáng…”

Ngài cũng thường nói: “Lúc nào thấy mệt mỏi, thân tâm không được điều hòa, để trị bệnh vặt này chỉ có cách lấy bút mực ra thảo ít bài, liền thấy trong người thư thái…”

Vừa ra thất, Ngài đi Đài Loan, Nhật Bản để quan sát những cải tiến của Phật Giáo. Những điều mắt thấy tai nghe làm cho Ngài càng tin tưởng vào bộ Tăng-già Chế Độ của mình vừa tung ra.

Chúng ta cũng nên hiểu thêm rằng, tiêu chuẩn cải cách của Thái Hư Đại Sư đưa ra là đặt sự cải cách trên nền tảng luật nghi, để tránh những tệ hại về sau.

Thái Hư Đại Sư.

Từ năm 1918 đến năm 1921, Ngài nhận lời yêu cầu của Hòa Thượng Liễu Dư, giữ chức tri chúng chùa Phổ Đà. Chẳng bao lâu, Ngài từ chức rồi đi du hóa khắp nơi trong nước, một mặt giảng diễn các kinh luận Đại Thừa để gây niềm tin chân chính cho mọi người; mặt khác, Ngài tiếp xúc với các yếu nhân, Phật Tử, sáng lập cơ quan truyền bá giáo lý, lập Hội Chánh Tín Phật Giáo… Ngài đã phát động phong trào học Phật mới mẻ chưa từng có; như lúc Ngài giảng Đại Thừa Khởi Tín tại Hán Khẩu, có Cư Sĩ Lý Ẩn Trần, ông đọc được Đạo Học Luận Hành, Lăng Nghiêm Nhiếp Luận của Ngài rồi khen: “Dẫu cho gặp Lục Tổ, chưa chắc Ngài đã độ được tôi, nhưng với văn chương tam muội thế này đã làm cho tôi cúi đầu bái phục”.

Chính thời gian này, tờ Giác Xã Tùng Thư (tiền thân nguyệt san Hải Triều Âm) xuất hiện, cùng thời, các luận Phật Thừa Tông Yếu Tân Đích, Duy Thức… cũng lần lượt được xuất bản.

Về sau, Ngài được cử làm trụ trì chùa Tịnh Từ, nhưng gặp sự chống đối, Ngài lại bỏ đi.

Từ năm 1922 – năm này Ngài 34 tuổi – đến năm 1928, Ngài càng hăng say sáng tác và để hết tâm lực vào công cuộc vận động cải cách Phật Giáo nước nhà. Có thể nói, bao nhiêu hoài bão trong lòng Ngài đều tung ra hết. Chính hai bài báo “Chi Hành Tự Thuật”, “Thích Tân Tăng” đã nói lên chí nguyện cùng chỗ mong muốn của Ngài đối với tiền đồ đạo pháp và sự tồn vong của đất nước.

Trong năm Quý Hợi (1923), Ngài cho ra một loạt bài tranh luận với Cư Sĩ Âu Dương Cánh Vô về Khởi Tín Luận có phải ngụy tạo chăng? Vấn đề tướng phần đồng chủng, biệt chủng, năm Phật giáng sinh v.v… Việc làm trên của hai vị đã làm cho giới học Phật bấy giờ càng thích thú nghiên cứu Phật Pháp hơn nữa.

Sang năm Giáp Tý (1924), Ngài có mở một “Đại Hội Phật Giáo Liên Hiệp Thế Giới” tại chùa Đại Lâm. Kế tiếp bốn năm liền, Ngài giảng kinh Nhân Vương Hộ Quốc tại trường Đại Học Trung Hoa; rồi Ngài đi thăm Ngũ Đài Sơn và hướng dẫn phái đoàn Phật Giáo Trung Hoa đi Nhật tham dự “Đại Hội Phật Giáo Đông Nam Á”. Về nước, Ngài đi Thượng Hải lập “Phật Hóa Giáo Dục Xã”; xuất bản tuần san Tâm Đăng; đến giảng tại đại học Hạ Môn và Phật Học Viện Mân Nam.

Bấy giờ trong nước cuộc chiến tranh đã lan tràn tới phương Bắc,. Tăng, Ni bị bắt buộc phải hoàn tục. Trong tình thế này, Ngài có viết ra quyển Tăng Chế Kim Luân để vận động cho tân Phật Giáo.

Năm Đinh Mão (1927) Ngài được mời làm trụ trì chùa Nam Phổ Đà và viện trưởng Phật Học Viện Mân Nam. Cũng năm này, đại học Lãng Phước đặt tại bên Đức mời Ngài giảng về môn Trung Hoa. Khi đó Ngài có trước tác quyển “Tự Do Sử Quan” đã dịch ra tiếng Anh.

Năm sau, Ngài từ chùa Linh Ẩn (Hàng Châu) về giảng “Phật Học Đại Cương” tại Nam Kinh.

Công việc vừa xong, Ngài lại xuất dương công du các nước Âu Mỹ để diễn giảng. Ở đây, có rất nhiều học giả của các nước Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ, Mỹ nhiệt tình hoan nghinh Ngài (có ghi rõ trong Hoàn Du Ký). Ngài là vị Tăng đầu tiên của Trung Hoa sang Âu Mỹ hoằng pháp và lập “Phật Học Uyển” ở Paris.

Từ năm 1929 đến năm 1939, Ngài nhận chức ủy viên thường vụ “Hội Phật Giáo Trung Hoa”; làm viện trưởng Viện Giáo Lý Bá Lâm ở Bắc Kinh; rồi vào Tứ Xuyên hoằng pháp, hợp với Cư Sĩ Lưu Tương lập “Viện Giáo Lý Hán Tạng” và có kế hoạch đặt Phật Học Uyển tại Nam Kinh. Các Phật Học Viện Vũ Xương, Mân Nam, Bá Lâm, Hán Tạng cùng ba chùa Đại Lân, Quy Sơn, Tuyết Đậu đều thuộc Phật Học Uyển cả.

Năm Nhâm Thìn (1932), niên hiệu Dân Quốc thứ 21, đáp lời thỉnh cầu của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, Ngài quang lâm trụ trì Tuyết Mai Tự cho nên chuyển giao Phật sự bản tự Nam Phổ Đà cho đệ tử Thường Tinh và Tính Nguyện kế nhậm phương trượng trụ trì.

Năm Quý Tỵ (1933), niên hiệu Dân Quốc thứ 22, vào tháng 5, sau khi chiến tranh bùng nổ, Hạ Môn bị chiếm đóng thì Ngài sắp xếp hai vị Pháp Sư Giác Bân và Hội Giác kế tục trụ trì Nam Phổ Đà Tự. Ngài luân lưu giảng dạy ở các tỉnh lớn nước nhà Trung Hoa như: Triết Giang, Giang Nam, Thiểm Tây, Phước Kiến, Quảng Châu… và công du các nước châu Á, lập mối bang giao giữa các nước Phật Giáo miền này với Trung Hoa.

Năm Bính Tý (1936), niên hiệu Dân Quốc thứ 25, Ngài đã ấn hành cuốn Giảng Nghĩa Chương Duy Thức Học, bản Giảng Nghĩa Kinh Ưu Bà Tắc, Kinh Kim Cương, Ba Cuốn Sách Của Từ Tôn v.v… ra đời tiếp với bộ Thái Hư Văn Sao.

Năm Đinh Sửu (1937), niên hiệu Dân Quốc thứ 26, Nhật Bản xâm lược, Trung Hoa kháng chiến. Ngài bèn lấy tư cách một Tăng sĩ Phật Giáo, gửi điện văn thúc Phật Giáo Đồ Nhật Bản kháng nghị chính phủ Nhật Bản đình chỉ hành vi xâm lược tàn bạo; đồng thời Đại Sư lấy tư cách một công dân, đứng ra tổ chức các đoàn cứu trợ, cứu giúp nỗi khổ của tất cả nạn nhân chiến tranh không phân biệt người thân hay quân địch, quân sĩ hay dân chúng; toàn quốc tất cả chiến tuyến đều có đoàn người từ bi phục dịch cho nỗi thảm cảnh khốn khổ của người bị nạn. Đồng thời, những lời kêu gọi thiết tha của Đại Sư kêu gọi dân tộc Nhật Bản đừng xâm phạm sự sống của người; kêu gọi dân tộc Trung Hoa cố bảo vệ sự sống của mình được quần chúng hưởng ứng và trí giả khâm phục.

Việc làm của Ngài đều nhắm vào mục đích bảo vệ chính pháp và giúp người vơi bớt khổ đau; đồng thời cũng thể hiện việc hoằng pháp bằng Thân giáo (tự thân thực hành, làm gương), Khẩu giáo (diễn giảng, trước thuật) và Ý giáo (một lòng hộ trì chính pháp, nhất tâm từ bi – vô ngã – vị tha) của Đại Sư vẫn tiến hành mãnh liệt. Đại Sư đã gióng tiếng đại hồng chung linh thiêng trong tiếng súng đại bác trong cuộc chiến tranh cho thế nhân đem lại niềm tự tin, tia hy vọng.

Năm Kỷ Mão (1939), niên hiệu Dân Quốc thứ 28, Ngài đứng ra tổ chức đoàn phỏng vấn của Phật Giáo Trung Hoa, xuất ngoại hoằng pháp khắp tất cả các nơi: Miến Điện, Ấn Độ, Nam Dương, Tích Lan v.v… Quần chúng hoan nghênh, kết quả khả quan.

Năm Canh Thìn (1940), niên hiệu Dân Quốc thứ 29, từ Ấn Độ trở về Trung Quốc, được đại biểu hơn 60 đoàn thể hoan nghênh tại Bồi Đô. Giữa đại hội, Ngài trình bày công việc của đoàn phỏng vấn và tình hình Phật Giáo các nơi. Tiếp đó giảng Chân Hiện Phật Luận và ấn hành trong mùa Đông năm ấy.

Năm Tân Tỵ (1941), niên hiệu Dân Quốc thứ 30, Đại Sư giảng “Pháp Tính Không Tuệ Học Khái Luận”, “Trung Quốc Phật Học” tại Viện Giáo Lý Hán Tạng; rồi trù bị cải tổ Giáo Hội Tăng Già Trung Quốc, lập “Trung Học Đại Hùng” ở Bắc Bồi và tổ chức “Hội Phật Giáo Trung Quốc”, cũng chính Đại Sư giữ chức “Ủy Viên Chỉnh Lý” trong đó.

Năm Đinh Hợi (1947), niên hiệu Dân Quốc thứ 36, vào thượng tuần tháng 2, Ngài giảng một thời pháp cuối đời với đề tài “Bồ-tát Học Xứ” tại Diên Khánh Tự; và sau khi không nhận huân chương lãnh tụ tôn giáo của “kháng chiến thắng lợi”, Đại Sư định triệu tập Đại Hội Toàn Quốc Phật Giáo trong ngày 8/4, đồng thời phát động triệu tập Hội Nghị Liên Hiệp Phật Giáo Quốc Tế.

Tất cả công việc đang lên như nước thủy triều, bỗng bệnh cũ tái phát, Ngài đang cầm bút dịch kinh Đại Bát Nhã bỗng nhiên an tường xả báo thân, thị tịch vào 1 giờ 13 phút ngày 25.2.ÂL (17/3/DL) tại ngôi già lam Ngọc Phật Tự, Thượng Hải, hưởng dương 59 xuân, pháp lạp 43 hạ.

Lễ nhập kim quan vào ngày 27 tháng 2 năm Đinh Hợi (19/3/1947). Nhục thân Ngài trong tư thế tọa thiền với sắc diện hồng hào đang nhập đại định. Tang lễ cử hành cho đến ngày 17 tháng 2 Nhuần năm Đinh Hợi (7/4/1947). Tứ chúng Tăng-Ni, Phật Tử đến thụ tang đông vô số; khi chiêm bái từ dung an nhiên tự tại của Ngài đều phát tín tâm kiên cố, tinh tấn tu tịnh nghiệp.

Thái Hư Đại Sư, vị đại Bồ-tát mang ánh sáng từ bi, trí tuệ Phật Pháp chan hòa khắp muôn nơi. Ngài mang lý tưởng Bồ-tát đạo, tổ chức cơ quan tuyên dương diệu pháp Như Lai khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa và tác động phong trào chấn hưng Phật Giáo khắp thế giới. Bản thân Ngài luôn chú trọng đến việc trước tác, dịch thuật; diễn giảng Phật lý, phát huy tinh nghĩa thượng thừa liễu nghĩa Phật Pháp; dung nạp các tư tưởng mới, chắt lọc mọi tà thuyết di đoan và kêu gọi tinh thần Lục Hòa đoàn kết, khuyến học đối với Tăng, tục trên toàn thế giới.

Di sản quý giá nhất của Ngài để lại cho hậu thế là “Thái Hư Bồ Tát Tạng” (太 虚 菩 薩 藏).

Nguồn tài liệu: Theo Vân Tuyền – phatgiao.org.vn
(Tưởng niệm 70 năm ngày Thái Hư Đại Sư viên tịch)

oOo

Chú thích: Một số tài liệu có vài chi tiết khác với bản tiểu sử bên trên, Thư Viện GĐPT xin kính trích đăng dưới đây để Quý Độc Giả tham khảo và tiện so sánh.

Bài 1:

ĐẠI SƯ THÁI HƯ

(Theo: Thư Viện Điện Tử Kinh Sách Phật Giáo – VNBET)

oOo

Tín nữ thiện nam ngưỡng vọng ân
Như trông kỳ tích cứu cơ bần
Quên thân vì pháp đâu màng khổ’
Giáo dưỡng hiền tài phát chánh nhân
Thuyết pháp độ sanh chưa kịp nghỉ
Khai trường dạy học chẳng ngừng chân
Hết lòng vị đạo không lay chuyển
Chí nguyện tinh anh mãi sáng ngần.

Đại Sư Thái Hư tên Duy Tâm, hiệu Thái Hư, họ Lã, người Hải Ninh, Chiết Giang.

Thuở nhỏ, ngài được bà ngoại nuôi dưỡng. Năm lên 10 tuổi, ngài hành hương đến núi Phổ Đà, từ đó rất thích đời sống tu hành.

Năm 15 tuổi, ngài lễ Hòa Thượng Sĩ Đạt xuất gia, rồi đến Thiên Đồng thọ giới Cụ-túc.

Năm 19 tuổi, ngài xem Đại Tạng Kinh, có phần tỏ ngộ.

Năm 26 tuổi, ngài đến núi Phổ Đà nhập thất, viết khảo cứu về nghĩa lý của bốn tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Thiền và Tịnh Độ tông.

Ngài chủ trương giáo thuyết Ngũ Thừa(1), khởi xướng cải cách Phật Giáo Trung Quốc, vận động Phật Giáo thế giới, thành lập Phật Học Viện Vũ Xương, Phật Học Viện Hán Tạng nhằm đào tạo Tăng tài.

Mùa xuân năm 1947, Ngài viên tịch tại Thượng Hải. Sau khi trà tỳ, trái tim vẫn còn nguyên vẹn và có đến mấy trăm viên xá-lợi. Ngài trụ thế 57 năm, hạ lạp 41. Công trình trước thuật của Ngài được biên tập dưới tựa đề: ”Thái Hư Đại Sư Toàn Tập”.

Bài tán:

Tận lực đề xướng
Dốc sức quan tâm
Tìm cách đổi mới
Ghét tà át chánh
Đào tạo Tăng tài
Đức trùm muôn loại
Đại nguyện Thái Hư
Xưa nay kiệt xuất.

oOo

(1) Ngũ Thừa (S: yãna): Năm pháp môn tu hành, dụ cho năm phương tiện vận chuyển chúng sanh đến thế giới an lạc.

Bài 2:

THÁI HƯ ĐẠI SƯ
(1889-1947)

(Theo: Trang Nhà Quảng Đức – quangduc.com)

Đại Sư Thái Hư tên Duy Tâm, hiệu Thái Hư, họ Lã, người Hải Ninh, Chiết Giang. Thuở nhỏ, Ngài được bà ngoại nuôi dưỡng. Năm lên 10 tuổi, ngài hành hương đến núi Phổ Đà, từ đó rất thích đời sống tu hành. Năm 15 tuổi, ngài lễ Hòa Thượng Sĩ Đạt xuất gia, rồi đến Thiên Đồng thọ giới Cụ-túc. Năm 19 tuổi, Ngài xem Đại Tạng Kinh, có phần tỏ ngộ. Năm 26 tuổi, Ngài đến núi Phổ Đà nhập thất, viết khảo cứu về nghĩa lý của bốn tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Thiền và Tinh Độ tông. Đại Sư Thái Hư chủ trương giáo thuyết Ngũ Thừa, khởi xướng cải cách Phật Giáo Trung Quốc, vận động Phật Giáo thế giới, thành lập Phật Học Viện Vũ Xương, Phật Học Viện Hán Tạng nhằm đào tạo Tăng tài.

HOẠT ĐỘNG CẢI CÁCH PHẬT GIÁO:

Ngài là Tăng sĩ Phật Giáo tân thời, đã cải cách Phật Giáo trong thời gian giữa các cuộc chiến. Thành lập Trung Hoa Phật Giáo Hội và tạp chí Hải Triều Âm. Ngài du hành Âu Châu (1928-1929) và thành lập Hội Thân Hữu Phật Giáo ở Paris. Ngài làm việc tích cực để cải thiện sự liên hệ giữa Phật Tử Đông phương và Tây phương. Tác phẩm duy nhất được dịch sang tiếng Anh là “Thuyết Giảng Về Phật Giáo”, một quyển sách nhỏ được xuất bản ở Paris năm 1928. Giáo thuyết chánh của ngài nhằm phát triển sự hòa hợp nhịp nhàng giữa các trường phái Phật Giáo khác nhau ở Trung Quốc.

“Mùa Hè năm 1922, các môn đồ của vị Đại Sư nổi tiếng Thái Hư đã hành trình từ Shanghai (Thượng Hải) đến Chengtu ở Szechuan (Chiết Giang) để phổ biến thông điệp Phật Giáo tân thời của thầy mình. Sự có mặt của họ đem lại sự hân hoan nồng nhiệt, và kết quả là sự hồi sinh thật sự của Phật Giáo. Họ đã được hoan nghinh hơn một năm qua, và hoạt động của họ đã được chuẩn bị bằng sự phổ biến rộng rãi tạp chí Hải Triều Âm. Những đề mục được biên tập cẩn thận trên tạp chí đó chuẩn bị mọi người cho sự viếng thăm của những nhà truyền giáo, và thông điệp của họ đã được sẵn sàng đáp ứng trước khi họ tới nhà. Đây là thông điệp hòa bình cho những ngày nhiễu nhương, nói rõ mục tiêu là phát triển giáo pháp Đại Thừa cao quý để giúp đỡ những người đang rất hoang mang trước thời thế. Thông điệp tâm linh nầy nhằm ba mục tiêu:

1) Ý định cải cách hệ thống Tăng-già.

2) Chương trình tái thiết Thần học Phật Giáo theo đường hướng của triết học tân thời.

3) Dùng giáo pháp của Đức Phật để thăng hoa con người và cải thiện xã hội.

Các nhà truyền giáo được ngài tổng đốc tỉnh chánh thức hoan nghinh. Mười sáu tờ nhật báo đồng thời hợp tác và dành cột cho giáo pháp mới, do đó quảng cáo miễn phí cho phong trào. Cuộc họp mặt đầu tiên được một số đông đảo người tham dự và mọi người chăm chú lắng nghe chương trình canh tân, một số đông đăng ký tham dự lớp học. Trong thực tế, một chương trình thật sự được đưa ra, giống như một khóa học ở đại học, hay là một lớp học mùa hè có đóng học phí. Rồi đại sảnh ở công viên của thành phố Manchu được đám đông chen vào để nghe các buổi thuyết giảng công cộng, các phòng học đều đầy chật những học viên phấn khởi. Một khóa dạy về lịch sử Phật Giáo được tổ chức, dạy những gì Phật Giáo đã đóng góp cho thế giới, và tại sao Phật Giáo bị nhiều hình thức dị đoan xâm nhập. Bây giờ, tất cả đều thay đổi. Câu chuyện xa xưa về bậc Giác Ngộ và cách nào Ngài tìm ra con đường giải thoát. Sự tôn thờ thần tượng bị bác bỏ – trong thời gian qua nó đã được chấp nhận để thích nghi với sự yếu kém của những người dốt nát. Ngày nay, sự giáo dục phải được nhấn mạnh. Một đại học Phật Giáo sẽ được thành lập. Tăng sĩ sẽ được khuyến khích để hăng hái học tập và phụng sự nhân dân. Sự từ bi của Đức Phật sẽ được giảng dạy thế nào để người ác trở thành người tốt bụng, người ích kỉ trở thành người chánh đáng, và người đói pháp sẽ được no đủ với giáo pháp Đại Thừa. Được nhấn mạnh nhất là các giờ nhịn ăn và thiền định trong ngày. Một sự tái sinh thật sự là mục tiêu, những nhà doanh nghiệp và chuyên gia giỏi nhất tuyên thệ và theo học đều đặn các khóa thiền định. Những người xưa kia không quan tâm tới tôn giáo nay đã chuyển đổi theo đức tin mới và nói với tôi về giá trị của những giờ thiền định, và tại sao đức tin của họ đã được củng cố. Khóa dạy tụng đọc được nhiều người tham dự. Các học viên đốt hương hằng ngày khi họ đọc tụng và ngồi thiền. Trong các buổi họp mặt, các học viên đồng hát lên, âm điệu giống như các bài thánh ca Thiên Chúa, và một bài hát được dùng là: “Hãy Mang Đức Phật Theo Mình”. Họ cũng tổ chức Hội Thanh Niên Phật Giáo, đang phát triển mạnh” (AJ Brace, Thơ Ký hội YMCA ở Cheng-tu, Trung Quốc – pratt 383-384).

Tiếc thay phong trào cải cách do công lao của Ngài và các đồng sự đã bị gián đoạn do sự chiếm quyền của Đảng Cộng Sản trên toàn lục địa Trung Quốc năm 1949.

Mùa xuân năm 1947, Đại Sư Thái Hư viên tịch tại Thượng Hải. Sau khi trà tỳ, trái tim vẫn còn nguyên vẹn và có đến mấy trăm viên xá-lợi.

Ngài trụ thế 57 năm, hạ lạp 41. Công trình trước thuật của ngài được biên tập dưới tựa đề “Thái Hư Đại Sư Toàn Tập”.

(Đại Sư Thái Hư, nhà sách Tịnh Liên – T’ai Hsu, The Seeker’s Glossary of Buddhism, tr.455-457, Thích Phước Thiệt dịch).

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.