TIỂU SỬ
TỔ DIÊN CHIỂU – PHONG HUYỆT
延 沼 風 穴
(896-973)
Đời thứ 4 tông Lâm Tế – Thiền Tông Trung Hoa
oOo
Tổ họ Lưu, quê ở Dư Hàn, sinh năm Bính Thìn (896), thuở nhỏ tỏ ra là người thông minh, lỗi lạc, kinh sách đọc qua đều thuộc làu làu. Lúc thiếu thời Ngài đã tỏ ra có chí khí anh tài; các sách vở đời, Ngài đều xem qua nhưng không có ý kinh bang tế thế. Phụ thân và người anh cố ép Ngài đi thi làm quan nhưng đến kinh đô, Ngài đến chùa Khai Nguyên xin xuất gia với Luật Sư Trí Cung.
Năm 20 tuổi, sau khi thọ giới Cụ-túc, Ngài dạo qua các nơi giảng kinh luận, chuyên nghiền ngẫm bộ kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa, tập tu chỉ quán định huệ và phát chí du phương hành khước.
Ngài từng đến yết kiến thiền sư Cảnh Thanh tại Việt Châu. Cảnh Thanh hỏi: Vừa rời nơi nào?
Ngài thưa: Từ Chiết Đông đến.
Cảnh Thanh hỏi: Có qua sông nhỏ chăng?
Ngài thưa: Thuyền to riêng bay bổng, sông bé chở được nào?
Cảnh Thanh bảo: Nước cảnh núi Thái chim bay chẳng qua, ngươi chớ nói lời nghe lóm.
Ngài thưa: Biển cả còn kinh sức thuyền chiến, vượt Hán buồm bay khỏi Ngũ Hồ.
Cảnh Thanh dựng đứng phất tử hỏi: Cái này là sao?
Ngài thưa: Cái này là cái gì?
Cảnh Thanh bảo: Quả nhiên chẳng biết.
Ngài thưa: Ra vào cuộn duỗi cùng Thầy đồng dụng.
Cảnh Thanh bảo: Chiếc muỗng nghe tiếng rỗng, ngủ say mặc nói xàm.
Ngài thưa: Đầm rộng chứa núi, lý hay dẹp cọp.
Cảnh Thanh bảo: Tha tội bỏ lỗi, hãy mau đi ra!
Ngài thưa: Ra đi tức mất.
Ngài ra đến pháp đường, liền nghĩ: Phàm người hành khước nhân duyên chưa tột chỗ cứu kính, không thể bèn thôi đi. Ngài liền trở lại thưa: Con vừa rồi trình bày chỗ cạn hẹp có xúc chạm đến Thầy, mong Thầy từ bi tha thứ cho.
Cảnh Thanh bảo: Vừa rồi ông nói từ Đông đến, đâu không phải từ Thúy Nham đến?
Ngài thưa: Tuyết Đậu tạm dừng đông bảo cái.
Cảnh Thanh bảo: Chẳng theo dê mất cuồng giải hết, trở lại trong ấy nhớ Chương Thiên.
Ngài thưa: Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ.
Cảnh Thanh bảo: Thơ nên cất, tạm mượn kiếm xem?
Ngài thưa: Cúi đầu người sành mang gươm đi.
Cảnh Thanh bảo: Chẳng những chạm phong hóa cũng tự bày lầm lẫn.
Ngài thưa: Nếu chẳng chạm phong hóa đâu thấy được tâm Cổ Phật?
Ngài lại thưa: Lại hứa thật với Thầy, nay có gì?
Cảnh Thanh bảo: Nạp tử (thiền sinh) phương Đông đến chẳng rành đậu bắp, chỉ nghe chẳng thôi mà thôi, đâu được hay thôi mà thôi.
Ngài thưa: Sóng to vọt ngàn tầm, nước trong đâu rời biển.
Cảnh Thanh bảo: Một câu bặt dòng muôn cơ nghĩ sạch.
Sư liền lễ bái. Cảnh Thanh bảo: Nạp Tử trổi thay!
oOo
Đến đạo tràng Hoa Nghiêm tại Nhượng Châu, Hoa Nghiêm bảo: Ta có làm bài ca chăn trâu, mời Xà-lê hòa.
Ngài thưa: Nhịp trống huơ roi trâu cọp chạy, xa dồn cây biển mỏm thành nhà.
Dừng lại Hoa Nghiêm, Ngài được sung chức Duy-na. Nhân có thị giả Khoách từ Nam Viện đến, Ngài nhận được những đặc điểm nên kết làm bạn và thầm ngộ được chỉ yếu Tam Huyền. Ngài than: Chỗ dùng của Lâm Tế như thế ư? Thị giả Khoách bảo Ngài nên đến yết kiến Nam Viện.
oOo
Đến Nam Viện vừa gặp, Ngài không lễ bái. Nam Viện bảo: Vào cửa phải rành chủ.
Ngài thưa: Quả nhiên thỉnh Thầy phân.
Nam Viện lấy tay vỗ gối trái một cái. Ngài liền hét! Nam Viện vỗ gối mặt một cái. Ngài lại hét! Nam Viện bảo: Vỗ bên trái gác lại, vỗ bên mặt là sao?
Ngài thưa: Mù.
Nam Viện liền nắm gậy. Ngài thưa: Chớ gông mù gậy tối. Giựt gậy đập Hòa Thượng, chớ bảo chẳng nói.
Nam Viện ném gậy, nói: Ba mươi năm làm trụ trì, hôm nay bị gã Chiết mặt vàng vào cửa hãm lại.
Ngài thưa: Hòa Thượng in tuồng ôm bát chẳng được, nói gạt là chẳng đói.
Nam Viện hỏi: Xà-lê từng đến Nam Viện lúc nào?
Ngài thưa: Là lời nói gì?
Nam Viện bảo: Lão tăng hỏi ông rõ ràng.
Ngài thưa: Cũng chẳng được bỏ qua.
Nam Viện bảo: Hãy ngồi uống trà.
Ngài xuống nhà Tăng xong, trở lên đảnh lễ tạ lỗi. Nam Viện hỏi: Xà-lê đã từng gặp người nào rồi đến đây?
Ngài thưa: Ở Nhượng Châu chùa Hoa Nghiêm cùng nhập hạ với thị giả Khoách.
Nam Viện bảo: Gần kẻ tác gia.
Nam Viện lại hỏi: Phương Nam một gậy thương lượng thế nào?
Ngài thưa: Thương lượng rất kỳ đặc.
Ngài lại hỏi: Hòa Thượng ở đây một gậy thương lượng thế nào?
Nam Viện cầm gậy lên bảo: Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy Thầy.
Ngay câu nói này Ngài triệt ngộ. Ngài ở lại đây hầu Tổ sáu năm.
oOo
Một hôm, Nam Viện gọi Ngài bảo: Ngươi nương nguyện lực đến gánh vác đại pháp, chẳng phải ngẫu nhiên.
Lại hỏi: Ngươi nghe Lâm Tế khi sắp tịch nói chăng?
Ngài thưa: Nghe.
Nam Viện bảo: Lâm Tế nói “Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt”. Lại, Ngài lúc bình sanh như con sư tử thấy liền giết người, đến khi sắp tịch cớ sao lại bó gối xuôi đuôi như vậy?
Ngài thưa: Mật phó sắp tịch, toàn chủ tức mật.
Nam Việt lại hỏi: Tại sao Tam Thánh Huệ Nhiên cũng không nói?
Ngài thưa: Con thật đã gần gũi nhận lãnh vào thất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa.
Nam Viện gật đầu, lại hỏi: Ngươi nói bốn thứ liệu giản là liệu giản pháp gì?
Ngài thưa: Phàm nói ra chẳng kẹt nơi phàm tình liền rơi vào thánh giải là bệnh lớn của học giả. Bậc Thánh trước vì thương xót mở bày phương tiện như lấy chốt tháo chốt.
Ngài hỏi: Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?
Nam Viện đáp: Cung vàng vừa ra khỏi lò hồng, bắn bể Xà-lê da mặt sắt (tân xuất hồng lô kim đàn tử, sứu phá xà-lê thiết diện bì).
– Thế nào đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?
– Cắt cỏ chợt chia đầu sọ tét, mây dồn mới tụ bóng vẫn còn (sô thảo tạt phân đầu não liệt, loạn vân sơ trán ảnh du tồn).
– Thế nào nhân cảnh đều đoạt?
– Bước nhẹ tiến lên cần gấp gấp, nắm roi cầm cương chớ chậm chậm (niếp túc tiến tiền tu cấp cấp, tróc tiên đương ưởng mạc trì trì).
– Thế nào nhân cảnh đều chẳng đoạt?
– Thường nhớ Giang Nam trong tháng ba, vườn hoa thơm ngát chá cô hót (thường ức Giang Nam tam ngoạt lý, chá cô đề xứ bách hoa hương).
oOo
Đến niên hiệu Trường Hưng năm thứ hai, năm Tân Mão (931) đời Hậu Đường, Ngài sang Nhữ Thủy, ở chùa Phong Huyệt. Ngôi chùa này đang hư hoại chỉ còn mấy tấm tranh che kèo cột. Ngài dừng ở đây một mình ban ngày lượm trái rụng ăn, tối lại đốt dầu thông, suốt bảy năm tròn như thế. Sau này, đàn việt biết được, góp công chung sức cất thành ngôi chùa mới, liền trở thành ngôi đại tòng lâm. Niên hiệu Thiên Phúc thứ hai, năm Đinh Dậu (937) triều Ngụy Tấn, ngày rằm tháng giêng Ngài bắt đầu khai pháp, độ Chúng vô lượng.
oOo
Ngài thượng đường bảo Chúng: Phàm con mắt người tham học, gặp cơ liền phải đại dụng hiện tiền, chớ tự ràng buộc nơi tiết nhỏ. Giả sử lời nói trước tiến được, vẫn còn kẹt vỏ dính niệm, dù là dưới câu liền được tinh thông, chưa khỏi chạm đến lại là thấy cuồng. Xem thấy hết thảy các ông đều là nhằm đến nương người tìm hiểu, sáng tối hai lối vì các ông một lúc quét sạch, dạy thẳng mỗi người các ông như sư tử con gầm gừ rống lên một tiếng, đứng thẳng như vách cao ngàn nhẫn, ai dám để mắt nhìn đến, nhìn đến là mù mắt y.
oOo
Ngài đến Dĩnh Châu ở trong nha môn lên tòa dạy Chúng: Tâm ấn của Phật Tổ in tuồng như máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liền ấn phá, chỉ như chẳng đi chẳng đứng ấn tức là phải, hay chẳng ấn tức là phải? Có người nói được chăng?
Khi ấy, có Trưởng Lão Lô Pha bước ra hỏi: Học nhân có máy trâu sắt, thỉnh Thầy chẳng ấn vào?
Ngài bảo: Quen câu kình nghê dầm trong rộng, lại than ếch nhảy ngựa lăn bùn (quán điếu kình nghê trừng thủy tẩm, khước nha oa bộ triển nê sa).
Lô Pha trầm ngâm. Ngài hét rằng: Trưởng lão sao chẳng nói lên?
Lô Pha suy nghĩ. Ngài đánh một phất tử, nói: Lại nhớ được thoại đầu chăng thử nêu lên xem?
Lô Pha vừa mở miệng, Ngài lại đánh một phất tử. Mục chủ nói: Mới biết Phật Pháp cùng vương pháp một loại.
Ngài hỏi: Thấy đạo lý gì?
Mục chủ nói: Đương cơ chẳng đoạn, lại chuốc loạn kia.
Ngài liền xuống tòa.
oOo
Ngài thượng đường. Có vị Tăng hỏi: Thầy xướng gia khúc tông phong ai? Nối pháp người nào?
Ngài đáp: Siêu nhiên vượt khỏi ngoài Oai Âm, kiễng chân luống nhọc khen đất cát.
– Hát xưa không âm vận, thế nào hòa được bằng?
– Gà gỗ gáy nửa đêm, chó rơm sủa hừng sáng.
oOo
Tăng hỏi: Thế nào là Phật?
Ngài đáp: Thế nào chẳng phải Phật?
– Chưa hiểu huyền ngôn, thỉnh Thầy chỉ thẳng.
– Nhà ở châu Hải Môn, Phù Tang (Nhật Bản) chiếu trước nhất.
oOo
Tăng hỏi: Gương xưa khi chưa lau thì thế nào?
Ngài đáp: Thiên ma bể mật.
– Sau khi lau thì thế nào?
– Huỳnh đế không đạo.
oOo
Tăng hỏi: Phàm có hỏi ra đều là niết quái, thỉnh Thầy chặt thẳng cội nguồn?
Ngài đáp: Ít gặp người tai phủng, thường thấy kẻ khắc thuyền.
– Chính khi ấy thì làm sao?
– Rùa mù gặp bộng (cây) tuy an ổn, cây khô trổ hoa vật ngoại xuân.
oOo
Tăng hỏi: Khi một niệm muôn năm thì thế nào?
Ngài đáp: Áo tiên lau đá rách.
– Hồng chung khi chưa đánh thì thế nào?
– Đầy dẫy đại thiên đều âm vận, diệu hợp thầm thông đâu hay phân.
– Sau khi đánh thì thế nào?
– Vách đá núi sông đâu chướng ngại, mù tiêu thông suốt mong thầm nghe.
oOo
Niên hiệu Khai Bảo thứ sáu, năm Quý Dậu (973) triều vua Tống Thái Tổ nhà Bắc Tống, ngày mùng một tháng tám, Ngài lên tòa nói kệ:
道 在 乘 時 須 濟 物
遠 方 來 慕 自 騰 騰
他 年 有 叟 情 相 似
日 日 香 煙 夜 夜 燈
Âm:
Đạo tại thừa thời tu tế vật
Viễn phương lai mộ tự đằng đằng
Tha niên hữu tẩu tình tương tợ
Nhật nhật hương yên dạ dạ đăng.
Nghĩa:
Phải thời truyền đạo lợi quần sanh
Chẳng quản phương xa tự vươn lên
Năm khác có người dòng giống đó
Ngày ngày hương khói đêm đêm đèn.
Đến ngày rằm, Ngài ngồi kiết già thị tịch, thọ 78 tuổi đời với 59 tuổi hạ. Trước đó một ngày, Ngài viết thơ giả từ đàn việt.
Đệ tử nối pháp Ngài là Thiền Sư Tỉnh Niệm.