Tiểu sử Tổ Thủ Sơn – Tĩnh Niệm Thiền Sư (Đời thứ 5 tông Lâm Tế – Thiền Tông Trung Hoa)

0

 

 

TIỂU SỬ

TỔ THỦ SƠN – TĨNH NIỆM
首 山 省 念
(926-993)

Đời thứ 5 tông Lâm Tế – Thiền Tông Trung Hoa

oOo

Tổ họ Địch, sinh năm Bính Tuất (926), quê quán tại Lai Châu (huyện Dịch, Sơn Đông, Trung Quốc). Ban đầu Ngài xuất gia tại chùa Nam Thiền ở quê nhà. Vừa thọ xong giới Cụ-túc, Ngài dạo khắp các thiền hội, thường tụng thầm kinh Pháp Hoa nên người đời gọi là Ngài là Niệm Pháp Hoa. Về sau Ngài đến hội của Thiền Sư Phong Huyệt và nơi đây Ngài sung chức tri khách.

Một hôm, Ngài đứng hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt nói với Ngài: Bất hạnh! Đạo Lâm Tế đến ta sắp chìm lặng vậy.

Ngài thưa: Xem trong một Chúng này đâu phải không có người kế thừa Hòa Thượng?

Phong Huyệt bảo: Người thông minh thì nhiều, kẻ thấy Tánh rất ít.

Ngài thưa: Như con, Hòa Thượng xem thế nào?

Phong Huyệt bảo: Ta tuy trông mong ở ngươi đã lâu, vẫn e ngại đắm mến kinh này không thể buông rời.

Ngài thưa: Việc này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy.

Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại việc Thế Tôn dùng con mắt như hoa sen xanh nhìn xem đại chúng, bèn hỏi: Chính khi ấy hãy bảo nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà nói, lại là chôn vùi Thánh trước. Hãy bảo nói cái gì?

Ngài bèn phủi áo đi ra. Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương trượng. Thị giả chạy theo sau thưa: Niệm Pháp Hoa nhân sao chẳng đáp lời Hòa Thượng?

Phong Huyệt nói: Niệm Pháp Hoa đã hội.

Một hôm, Ngài cùng Huệ Chơn (tri viên) đồng đến thưa hỏi. Phong Huyệt hỏi Huệ Chơn: Thế nào là Thế Tôn chẳng nói mà nói?

Huệ Chơn thưa: Tu hú trên ngọn cây kêu.

Phong Huyệt bảo: Ngươi tạo nhiều phước si làm gì? Sao không tham cứu ngôn cú?

Phong Huyệt hỏi Ngài: Ngươi thì sao?

Ngài thưa: Đổi sắc (mặt) bày đường xưa. Chẳng rơi cơ lặng yên (động dung dương cổ lộ, bất đọa tiếu nhiên cơ).

Phong Huyệt bảo Huệ Chơn: Ngươi sao chẳng xem Niệm Pháp Hoa hạ ngữ?

oOo

Hòa Thượng Sở ở Bạch Triệu đến Nhữ Châu nghỉ tại Tuyên Hóa. Phong Huyệt sai Ngài đến truyền ngữ. Vừa gặp nhau, Ngài đưa cao tọa cụ hỏi: Trải là phải, chẳng trải là phải?

Bạch Triệu đáp: Nhà mình xem lấy.

Ngài liền hét! Bạch Triệu bảo: Ta từng gần gũi thiện tri thức chưa từng dám làm như thế.

Ngài nói: Giặc cỏ đại bại.

Bạch Triệu bảo: Ngày mai gặp Hòa Thượng Phong Huyệt sẽ thuật lại đầy đủ.

Ngài thưa: Vâng! Vâng! Không nên quên mất.

Ngài trở về thưa lại với Phong Huyệt. Phong Huyệt bảo: Ngày nay lại bị ngươi bắt một viên giặc cỏ.

Ngài thưa: Tay khéo chẳng khoe danh.

Hôm sau, Bạch Triệu vừa đến gặp Phong Huyệt liền thuật lại lời hôm qua. Phong Huyệt bảo: Chẳng những hôm qua, ngày nay quả tang đã thua bị bắt.

oOo

Ngài đến trụ Thủ Sơn, Nhữ Châu (Lâm Nhữ, Hà Nam) đời thứ nhất nên mọi người gọi Ngài là Thủ Sơn Thiền Sư. Ngày khai đường có vị Tăng hỏi: Thầy xướng gia khúc tông phong ai? Nối pháp người nào?

Ngài đáp: Thiếu Thất trước núi xem bàn tay.

– Lại thỉnh hồng âm hòa một tiếng?

– Như nay cũng cần toàn thể biết.

oOo

Ngài bảo Chúng: Phật Pháp trao cho quốc vương, đại thần, đàn việt có thế lực khiến đèn đèn mồi nhau tiếp tục không dứt cho đến ngày nay. Đại chúng hãy nói tiếp tục cái gì?

Ngài im lặng giây lâu, lại nói: Ngày nay cần phải sư huynh Ca-diếp mới được.

Tăng hỏi: Thế nào là gia phong của Hòa Thượng?

Ngài đáp: Một lời cắt đứt ngàn cửa sông, trước ngọn muôn trượng mới được huyền.

– Thế nào là cảnh Thủ Sơn?

– Mặc tình mọi người xem.

– Thế nào người trong cảnh?

– Ăn gậy được hay chưa?

Tăng lễ bái. Ngài bảo: Hãy đợi khi khác.

oOo

Tăng hỏi: Người xưa dở chùy, dựng phất, ý chỉ thế nào?

Ngài đáp: Đảnh riêng không khách ngủ.

– Chưa biết ý chỉ thế nào?

– Chẳng phải người ôm gốc cây.

– Thế nào là con đường Bồ-đề?

– Đây cách huyện Nhượng năm dặm.

– Việc hướng thượng thế nào?

– Qua lại chẳng đổi.

oOo

Tăng hỏi: Chỗ Chư Thánh nói chẳng tột, thỉnh Thầy nêu bày?

Ngài đáp: Thần quang muôn dặm trọn một chiếu, người nào dám bằng cùng mặt trời.

– Một cây lại nở hoa không?

– Nở đã lâu rồi.

– Chưa biết kết nụ chăng?

– Đêm qua đã gặp sương.

– Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, chưa biết để rõ việc gì?

– Ngươi thử nói xem.

Tăng liền hét! Ngài bảo: Mù!

Tăng lại hét! Ngài bảo: Gã mù này hét loạn thế ấy để làm gì?

Tăng lễ bái. Ngài liền đánh!

oOo

Tăng hỏi: Chúng Tăng vây quanh, Thầy nói pháp gì?

Ngài đáp: Đập cỏ rắn sợ.

– Chưa biết thế nào là hạ thủ?

– Vừa rồi có bao nhiêu người nên táng thân mất mạng.

– Hai con rồng giành hạt châu, con nào được?

– Con được là mất.

– Con chẳng được thì thế nào?

– Châu ở chỗ nào?

oOo

Tăng hỏi: Thế nào là tướng Phạm Âm?

Ngài đáp: Lừa kêu chó sủa.

Ngài lại bảo: Cần được thân thiết, nhất là đừng đem hỏi lại hỏi, hội chăng? Hỏi ở chỗ đáp, đáp ở chỗ hỏi. Ngươi nếu đem hỏi lại hỏi thì lão tăng ở dưới gót chân ngươi, ngươi nếu suy nghĩ thì chẳng giao thiệp.

Khi ấy có vị Tăng bước ra lễ bái. Ngài liền đánh! Tăng liền hỏi: Khi cắm gậy nơi núi sâu thì thế nào?

Ngài đáp: Lầm!

Tăng nói: Lầm!

Ngài lại đánh!

oOo

Ban đêm có vị Tăng vào thất, Ngài hỏi: Ai?

Tăng chẳng đáp. Ngài nói: Biết được ngươi rồi.

Tăng cười. Ngài bảo: Lại đâu phải người khác?

Nhân đó, Ngài làm một bài kệ:

Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi
Trí giả chỉ kim mãnh đề thủ
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.

Dịch:

Bước chân nhè nhẹ ngại người hay
Cười nói rõ ràng có gì nghi
Kẻ trí hiện nay gắng gìn giữ
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.

oOo

Ngài dạy Chúng: Phật Pháp không có nhiều, chỉ vì bọn các ông tự tin chẳng đến. Nếu các ông tự tin thì ngàn vị Thánh ra đời cũng không làm gì được các ông. Vì sao như thế? Vì ở chỗ trước mặt các ông không có chỗ mở miệng. Chỉ vì các ông tự tin không đến, chạy ra ngoài tìm cầu. Sở dĩ đến được trong ấy bèn là Phật Thích Ca, sẽ cho các ông ba mươi gậy. Tuy nhiên như thế, kẻ sơ cơ hậu học bằng vào đạo lý nào? Hãy hỏi các ông được cùng ấy hay chưa?

Ngài im lặng giây lâu, nói tiếp: Nếu được cùng ấy mới là vô sự.

oOo

Ngài dạy Chúng: Chư Thượng Tọa! Chẳng được hét cuồng, hét loạn. Trong ấy bình thường nói với các ông. Khách thì trước sau vẫn là khách, chủ thì trước sau vẫn là chủ, khách không có hai khách, chủ không có hai chủ. Nếu có hai khách hai chủ tức là hai gã mù. Do đó, nếu khi ta đứng thì các ông phải ngồi, đứng thì cùng các ông đứng. Tuy nhiên như thế, đến trong ấy phải để mắt cho lanh mới được. Trong khoảng con mắt dừng chớp là xa ngàn dặm muôn dặm. Vì sao như thế? Ví như cách cửa sổ nhìn con ngựa chạy qua, vừa suy nghĩ liền không dính dáng.

Chư Thượng Tọa! Đã vậy, nơi đây phải chín chắn lưu tâm, chẳng cần ôm rỗng, ngày kia giờ khác sẽ lừa phắt ông vậy. Các ngươi! Nếu có việc thì lại gần đây, vô sự thì trân trọng!

oOo

Ngài có làm bài kệ Cương Tông rằng:

Đốt tai chuyết lang quân
Xảo diệu vô nhân thức
Đả phá Phụng Lâm quan
Trước hài thủy thượng lập.

Đốt tai xảo nữ nhi
Thoán toa bất giải chức
Khán tha đấu kê nhân
Thủy ngưu dã bất thức.

Bối âm sơn tử hướng dương đa
Nam lai bắc vãng ý như hà
Nhược nhân vấn ngã tây lai ý
Đông hải đông diện hữu Tân La.

Dịch:

Dốt thay chàng trai quê (vụng)
Khéo léo không người biết
Đập phá cổng Phụng Lâm
Mang giày đứng trên nước.

Dốt thay cô gái sang (khéo)
Ném thoi chẳng biết dệt.
Xem người coi đá gà
Con trâu cũng chẳng biết.

Kẻ bỏ núi âm hướng dương nhiều
Sang nam đến bắc ý thế nào?
Nếu người hỏi ta Tổ sư ý
Mặt đông biển đông có Tân La (Triều Tiên).

oOo

Đời Bắc Tống triều vua Thái Tông, niên hiệu Thuần Hòa thứ 3, năm Nhâm Thìn (992), vào giờ Ngọ ngày mồng bốn tháng chạp, Ngài thượng đường nói kệ:

今 年 六 十 七
老 病 隨 緣 且 遣 日
今 年 記 却 來 年 事
來 年 記 著 今 朝 日

Âm:

Kim niên lục thập thất
Lão bệnh tùy duyên thả khiển nhật
Kim niên ký khước lai niên sự
Lai niên ký trước kim triêu nhật.

Dịch:

Năm nay sáu mươi bảy
Già bệnh tùy duyên cho qua ngày
Năm này nhớ lại việc năm tới
Năm tới lại nhớ việc sáng nay.

Đúng năm sau, Quý Tỵ (993), đúng như ngày giờ trên Ngài thượng đường tập chúng nói kệ:

白 銀 世 界 金 色 身
情 與 無 情 共 一 真
明 暗 盡 時 都 不 照
日 輪 午 後 示 全 身

Âm:

Chư tử mạn ba ba
Quá khước cơ Hằng hà
Quan Âm chỉ Di Lặc
Văn Thù bất nại hà.

Dịch:

Các con dối lăng xăng
Lỗi nhiều cát sông Hằng
Quan Âm chỉ Di Lặc
Văn Thù biết làm sao?

oOo

Ngài im lặng giây lâu, nói tiếp bài kệ:

白 銀 世 界 金 色 身
情 與 無 情 共 一 真
明 暗 盡 時 都 不 照
日 輪 午 後 示 全 身

Âm:

Bạch ngân thế giới kim sắc thân
Tình dữ phi tình cộng nhất chân
Minh ám tận thời câu bất chiếu
Nhật luân ngọ hậu thị toàn thân.

Dịch:

Thế giới bạch ngân thân sắc vàng
Tình với phi tình một tánh chân
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.

Khi mặt trời vừa xế thì Ngài ngồi yên lặng thị tịch, thọ 68 tuổi. Đồ chúng hỏa thiêu nhục thân Ngài, thu được xá–lợi ngũ sắc rất nhiều, bèn lập tháp thờ tại Thủ Sơn.

Nối pháp Ngài có Thiền Sư Thiện Chiêu.

 

Share.

Leave A Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.