Đầu Xuân năm Tỵ kể lại chuyện bài thơ “Rắn đầu biếng học” của Thần đồng Bác học Lê Quý Đôn

Một hôm quan Hiệu thảo Vũ Công Trấn đến thăm người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1724) là quan Nghè Lê Phú Thứ (về sau đổi tên Lê Trọng Thứ – là cha của Lê Quý Đôn). Quan Nghè Thứ vốn là người mẫn tiệp, tài trí, thanh liêm, học vấn uyên thâm và giỏi văn chương thi phú, rất được giới nhân sĩ khoa bảng trọng vọng.

Tương truyền rằng hôm ấy vừa đến đầu làng, Vũ Công Trấn thấy một lũ trẻ đang trần truồng tắm trong ao bèn hỏi thăm:

– Cháu nào biết nhà quan Nghè Thứ ở đâu chỉ đường giúp ta.

Một cậu bé chừng bảy, tám tuổi mặt mũi sáng sủa, chạy lên bờ ao trả lời:

– Ông quen biết quan Nghè Thứ, đến nhà quan Nghè chơi, chắc hẳn là người giỏi chữ. Vậy cháu đố ông biết đây là chữ gì. Nói được thì cháu sẽ chỉ nhà cho.

Nói rồi, cậu bé vẫn đang ở truồng đứng xoạc hai chân, dang hai tay ra nhìn vào ông khách. Vũ Công Trấn không cần suy nghĩ, trả lời ngay:

– Đó là chữ Đại chứ khó gì đâu mà đố!

(Chữ Hán khi viết chữ Đại trống giống như một người có đầu, đứng dang hai tay hai chân ra).

Ngờ đâu thằng bé lúc lắc đầu cười rồi nói lớn:

– Thưa ông, vậy là sai rồi! Đó là chữ Thái ông ạ.

(Chữ Thái giống chữ Đại, nhưng có điểm dấu chấm ở dưới, tựa như ở vị trí chỗ “của quý” của thằng bé). Quan Hiệu thảo Vũ Công Trấn giật mình nhận thấy mình đã sơ ý, không nhìn thấy rõ hơn nên… thua thằng bé!

Cậu bé nói xong, ôm quần áo chạy biến vào làng.

Khi những đứa trẻ khác chỉ cho đến được nhà quan Nghè Thứ, Vũ  Công Trấn kể lại cho bạn nghe câu chuyện hỏi nhà, đố chữ vừa rồi và nhận xét:

– Trẻ con làng này thông minh quá! Đứa trẻ nhỏ đố chữ tôi lúc nãy sau này ắt phải là người rất tài giỏi!

Quan Nghè Thứ gọi con mang trà ra ra đãi khách. Vừa nhìn thấy ông khách, cậu cúi đầu vòng tay lí nhí chào. Vũ Công Trấn ngẫng lên “à!” một tiếng sửng sốt:

– Thì ra đây chính là cậu bé đã đố chữ tôi lúc nãy ngoài ao làng!

Quan Nghè Thứ giận lắm, bảo cậu bé lấy roi mang ra, nằm lên giường chuẩn bị đánh đòn về tội hỗn láo. Nhận thấy cậu bé còn trẻ con mà đã thông minh, hay chữ, Vũ Công Trấn liền đứng lên xin tha tội cho cậu. Hỏi tên thì cậu thưa tên là Lê Quý Đôn. Và để cho quan Nghè Thứ bớt cơn giận con, quan Hiệu thảo Vũ Công Trấn bảo Lê Quý Đôn:

– Nếu cháu muốn khỏi bị đánh đòn thì phải làm một bài thơ tạ tội vô lễ vừa rồi.

Lê Quý Đôn ngẩng đầu lên thưa:

– Dạ. Cháu tạ ơn bác. Xin bác ra đề cho ạ!

– Ta ra đề thì sẽ rất khó đó. Thôi cho cháu tự suy nghĩ mà làm.

Cậu thưa:

– Xin bác cứ ra đề, cháu sẽ xin được lĩnh ý làm theo.

– Vậy thì nhân phụ thân cậu vừa bảo cậu là tuy học giỏi, thông minh nhưng thường chểnh mảng, ham chơi biếng học, “rắn đầu rắn cổ” (cứng đầu cứng cổ), cậu cứ lấy đó làm đề và làm bài thơ Nôm thất ngôn bát cú hứa sẽ chăm học.

Chỉ chốc lát, Lê Quý Đôn ứng khẩu bài thơ với tựa đề là “Rắn đầu biếng học”:

Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng cam chịu vệt dăm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

Vừa nghe xong, vị khách quan Vũ Công Trấn kinh ngạc, vỗ đùi kêu lên:

– Hay quá! Giỏi quá! Bài thơ rất “chỉnh”, rất “đắt”. Quả là thần đồng!

Thế là cậu bé được miễn phạt tội!

oOo

Bài thơ này về sau lưu truyền có một vài bản chép hơi khác, nhưng tựu trung đều như nhau là cậu bé Lê Quý Đôn tài tình kể tên các loài rắn trong bài thơ. Bài thơ trích trên đây có vẻ như sát với bài gốc nhất vì ý, tứ, câu, vần đối nhau chỉnh hơn các dị bản kia.

Cái độc đáo, đặc sắc của bài thơ là ngoài điểm thứ nhất: Lê Quý Đôn đã đưa tên các loài rắn vào từng câu thơ (mỗi câu có tên một loài/ hay chữ rắn) như Liu điu (chỉ loại rắn như đòng đong, mới nở); Rắn [đầu]; Hổ lửa; Mai gầm; Ráo (tùy nơi còn gọi là rắn lại hay rắn lục); Lằn (thằn lằn, một loài bò sát, có nơi gọi là rắn mối); Trâu (hổ trâu là một loài rắn lớn, màu đen, khi bò thì chúi đầu xuống); Hổ mang.

Điểm thứ hai, ý tứ nội dung bài thơ sâu sắc và rất đúng niêm luật thể thơ thất ngôn bát cú. Ngay câu đầu (Chẳng phải liu điu cũng giống nhà) và câu cuối (Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia), cậu bé Lê Quý Đôn đã tỏ rõ khí phách và lòng tự tôn của một học trò con nhà ‘danh gia vọng tộc’; rồi lại tự hối về việc rắn đầu, biếng học, lếu láo của mình dẫn đến cha mẹ phải muộn phiền (đau lòng mẹ, rát cổ cha), có khi phải dùng đến roi vọt (lằn lưng) để giáo huấn. Tuy vậy, để hứa phải chăm học như đòi hỏi của người khách ra đề, cậu bé kỳ tài còn dám dẫn đến cả điển tích Khổng – Mạnh để tự ví mình: Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học (nước Trâu là quê hương của Khổng Tử, nước Lỗ là quê hương Mạnh Tử), quả thật vừa đáp ứng được yêu cầu của người ra đề, vừa nói lên được chí khí cao vời vợi của mình: chăm học để rạng danh với đời, không hổ thẹn với gia đình, dòng tộc và xã hội!

Lớn lên Lê Quý Đôn 3 lần thi đậu Thủ khoa cả 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình; làm quan Thị thư ở Viện Hàn Lâm; rồi sung làm Toản tu Quốc sử; Tri binh phiên; sau thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Lê Quý Đôn được mệnh danh là nhà bác học nổi tiếng của nước ta vào thế kỷ XVIII. Ông từng đi Sứ nhà Thanh, làm thơ đối đáp với Sứ thần các nước khác. Và các tác phẩm ông sáng tác có tới 40 bộ, gồm hàng trăm quyển sách./.

QUANG MAI
(Viết & lạm bàn theo cứ liệu Việt sử).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.