Sử kiện những năm Tỵ đáng nhớ trong Việt sử

TVGĐPT – Như thông lệ mỗi dịp đầu năm mới âm lịch, Tết Nguyên Đán Ất Tỵ năm nay mời Quý Bạn Đọc cùng Thư Viện GĐPT cùng ôn lại một vài sử liệu đáng nhớ trong Việt sử vào những năm con Rắn (năm Tỵ) từ thời lập quốc, để chúng ta mãi nhớ về nguồn cội Tổ tông một thời oanh liệt đổ máu đào xương trắng vào công cuộc kiến quốc, khai quốc, hộ quốc và bảo quốc thiêng liêng…

oOo

Quý Tỵ – 208:

Thủ lãnh tộc người Âu Việt miền sơn cước là Thục Phán sau chiến thắng chống quân Tần đã thống nhất các tộc người Âu Việt và Lạc Việt lập nên nhà nước Âu Lạc, xưng đế hiệu là An Dương Vương; tiếp nối xây dựng và cũng cố nhà nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương, lập đô ở thành Cổ Loa (Hà Nội), cho xây dựng thành quách to rộng, kiên cố, đào đắp nhiều lớp vòng thành, hào lũy, tạo nên một căn cứ quân sự liên hoàn thủy – bộ và cũng là trung tâm kinh tế – chính trị của nước Việt lúc bấy giờ.

Tân Tỵ – 981:

Phát khởi cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lăng lần thứ nhất: Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và thế tử Đinh Liễn bị ám sát, Đinh Toàn lên nối nghiệp nhà Đinh ở tuổi lên 6; nhà Tống lợi dụng cơ hội xáo trộn này, không ngừng đe dọa, yêu sách nước ta phải thuần phục. Cuối năm 980, quân Tống đã chia làm nhiều mũi tiến quân đánh vào nước ta. Trước hiểm họa xâm lăng, vào đầu năm 981, sau một thời gian tổ chức kháng chiến, vào tháng Ba âm lịch, quân dân Đại Cồ Việt dưới sự chỉ huy của Tướng quân Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) chiến đấu oai hùng và đã lập nên những chiến công hiển hách: Phá tan thủy quân giặc Tống do Lưu Trừng cầm đầu ở sông Bạch Đằng; đại thắng ở Bình Lỗ (vùng Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội), chém chết tướng giặc Hầu Nhân Bảo; phá tan quân giặc ở Tây Kết ((vùng Hiệp Hòa, Việt Yên, Bắc Giang) khiến tướng giặc Trần Khâm Tộ phải tháo chạy về nước, hai tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Hưng bị bắt sống đem về giam giữ ở kinh đô Hoa Lư… Những thất bại to lớn của cuộc xâm lược khiến nhà Tống hoảng sợ phải ra lệnh bãi binh. Quân dân Đại Cồ Việt kết thúc công cuộc kháng chiến chống giặc Tống với chiến thắng rực rỡ.

Đinh Tỵ – 1077:

Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lăng lần thứ hai và chiến thắng lịch sử trận Như Nguyệt: Rắp tâm báo thù thất bại trong lần xăm lăng trước (năm 981), nhà Tống lần thứ hai lại cất binh đưa quân tiến vào xâm lăng Đại Việt. Đạo quân xâm lược hùng hậu do các Chiến tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy. Quân Tống huy động khoảng 100.000 quân binh, 45.000 quân từ biên giới với Liêu Hạ, số còn lại là quân binh trưng tập, 10.000 chiến mã, 200.000 dân phu; Chiến tướng và binh lính có kinh nghiệm trận mạc dày dạn và được trang bị vũ khí ‘máy móc” thời bấy giờ là máy bắn đá, hỏa tiễn… cùng với lực lượng thủy binh hỗ trợ.

Quân binh Đại Việt dưới sự chỉ huy của Tướng quân Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến dọc theo sông Như Nguyệt nhằm ngăn bước tiến quân thù. Vào ngày 18 tháng 1 năm 1077, bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt vang lên trên sông Như Nguyệt (một đoạn của sông Cầu), nơi phòng tuyến của quân ta, đanh thép khẳng định chủ quyền non sông nước Việt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Đến tháng Ba âm lịch, quân Tống do bị tổn thất nặng nề mà không chọc thủng, phá vỡ được phòng tuyến của quân Đại Việt, nhà Tống buộc phải điều đình và triệt binh về nước. Lần thứ hai, cuộc kháng chiến chống giặc Tống của quân dân Đại Việt lại giành được chiến thắng oai hùng. Vào tháng 9 năm ấy, đê sông Như Nguyệt được triều đình cho cũng cố vững chải thêm để làm phòng tuyến gìn giữ vùng biên.

Cũng từ đó, bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” huyền thoại từ chỗ gắn liền với một chiến công hiển hách, một nhân vật lịch sử uy dũng, một thời đại oai hùng, theo năm tháng đã trở thành bài thơ cho mọi thời đại, có giá trị như bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của nước Việt lúc bấy giờ.

Kỷ Tỵ – 1149:

Hình thành “trang Vân Đồn” – thương cảng đầu tiên của nước Việt: Tháng Hai âm lịch, niên hiệu Đại Định thứ 10 (1149) thương thuyền các nước Trảo Oa, Lọ Lạc và Xiêm La xin được vào ở lại buôn bán tại Hải Đông (vùng biển Quảng Ninh). Vua Lý Anh Tông đồng ý, bèn cho lập “trang Vân Đồn” nơi hải đảo để tiện việc mua bán thông thương bằng đường biển với thuyền buôn các nước. Đây là thương cảng hình thành đầu tiên sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Nhờ việc làm này, Vân Đồn dần phát triển lớn mạnh, trở thành một thương cảng trọng yếu ở phía Bắc suốt thời Lý, Trần và Lê sơ về ngoại thương trong một đất nước trọng nông Đại Việt thời ấy.

Đinh Tỵ – 1257:

Bùng nổ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ nhất: Tháng Chạp năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), quân Mông Cổ sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), Ngợp Lương Hợp Thai, chủ tướng Mông Cổ ở Vân Nam, huy động ba vạn bộ binh và kỵ binh cùng nhiều chiến tướng giỏi chia quân làm 2 đạo theo sông Thao tiến xuống phương Nam vào lưu vực sông Hồng xâm lăng nước ta. Vua Trần Thái Tông chỉ huy quân binh lên phía Bắc kháng cự nhưng qua các cuộc giao tranh ác liệt, trước thế giặc quá mạnh, quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải ra lệnh quân sĩ rút xuống phía Nam để bảo toàn lực lượng, bỏ Thăng Long và thực hiện kế hoạch “không thành” (vườn không nhà trống) để tiêu hao lực lượng quân thù.

Trong cuộc kháng chiến này, Thái sư Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Giữa cơn nguy cấp, vua ngự trên thuyền nhỏ đến thuyền Thái úy Trần Nhật Hạo vấn kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ “nhập tống” ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên qua nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi ý Trần Thủ Độ. Ông trả lời quả quyết: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”. Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của Thái sư Trần Thủ Độ đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt.

Đến ngày 24 tháng Chạp (29-1-1258), quân Đại Việt phản công quyết liệt, đánh vào Đông Bộ Đầu (khu vực Long Biên, Hà Nội) giành chiến thắng, thu phục kinh thành, khiến giặc phải tháo chạy rút quân về nước. Đất nước Đại Việt có được mùa Xuân thái bình ngay sau đó, quân dân củng cố tinh thần và lực lượng để lại phải đối đầu với quân Nguyên trong 2 lần xâm lược gần 40 năm sau; rồi đến năm Ất Tỵ – 1305, đất nước một lần nữa có một tin vui khác.

Ất Tỵ – 1305:

Cuộc “hôn nhân ngoại giao” kỳ lạ Việt – Chiêm được chính thức khởi đầu. Vua Chiêm Thành sai Sứ bộ hơn 100 người do Chế Đô Đài dẫn đầu đem nhiều vàng bạc, hương liệu quý và các báu vật khác qua Đại Việt làm lễ vật cầu hôn Huyền Trân Công Chúa. Khi theo chồng, Huyền Trân trở thành người con gái đầu tiên của nước Việt đi qua Hải Vân Sơn và cũng là người con gái đầu tiên đã qua cửa ải ngăn cách giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành để theo chồng ở xứ khác. Cuộc “hôn nhân ngoại giao” lịch sử này đã làm cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng được cải thiện.

Quý Tỵ – 1473:

– Tháng Giêng âm lịch, vua Lê Thánh Tông thân hành xuống ruộng cùng các quan trong triều thực hiện nghi thức cày ruộng “Tịch điền”, Tập tục khuyến nông này do vua Lê Ðại Hành khởi xướng từ gần 500 năm trước, nhân dịp mỗi đầu xuân mới hằng năm nhằm khích lệ nông dân chăm lo cày cấy.

– Tháng Hai âm lịch, vua ban hành sắc lệnh cấm uống rượu nhằm hạn chế nạn chè chén say sưa, bỏ bê việc công của các quan lại trong triều đình.

Quý Tỵ – 1533:

Tháng Giêng âm lịch, Đại tướng quân Nguyễn Kim đưa Lê Ninh – người con trai còn nhỏ tuổi của vua Lê Chiêu Tông –  lên ngôi vua ở Ai Lao, lấy đế hiệu là Lê Trang Tông, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa; tôn Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, chưởng nội ngoại sự; đưa Đinh Công làm Thiếu úy Hùng quốc công và khởi đầu triều đại Lê trung hưng sau khi Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc (năm Đinh Hợi – 1527). Trước nhà Mạc, triều Lê sơ đã thành lập (năm 1428), đất nước bước vào thời kỳ phát triển cực thịnh, tuy nhiên, hai phương Nam – Bắc phân chia. Cục diện Nam – Bắc triều chấm dứt cũng năm Quý Tỵ (1593), sau khi Mạc Mậu Hợp bị chết chém.

Việc vua Lê Trang Tông lên ngôi ở Ai Lao đã trở nên là vị vua đầu tiên và cũng là duy nhất trong các Hoàng đế nước Việt lên ngôi ở ngoại quốc. Với sự kiện triều Lê trung hưng được lập nên và tồn tại đến năm Kỷ Dậu – 1789, nhà Hậu Lê trở thành một triều đại tồn tại dài nhất trong lịch sử các triều đại của nước Việt.

Kỷ Tỵ – 1689:

Tháng Sáu âm lịch, triều đình Lê-Trịnh đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhằm bảo toàn lãnh thổ quốc gia, cử Sứ bộ qua nhà Thanh đòi trả lại các châu Bảo Lạc, Thủy Vị, Vị Xuyên, Quỳnh Nhai.

Quý Tỵ – 1773:

Phong trào Tây Sơn do ba anh em nhà Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo bắt đầu phát triển lớn mạnh. Tháng Hai âm lịch, Nghĩa quân Tây Sơn lần lượt đánh chiếm miền Hạ Đạo, Tuy Viên, và các vùng lân cận (Quảng Ngãi, Bình Ðịnh ngày nay). Đến tháng Tám âm lịch, Nghĩa quân hạ thành Quy Nhơn, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên hoảng sợ bỏ chạy. Sau đó, quân Tây Sơn liên tiếp tấn công vào các phủ Quảng Ngãi, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận. Thế lực của nghĩa binh Tây Sơn từ đây ngày càng mạnh mẽ và lan rộng, đã phát triển thành một phong trào Nông dân Tây Sơn rộng lớn về sau, dẫn đến những chiến công oanh liệt: lật đổ triều Lê – Trịnh – Nguyễn mục nát; đánh tan 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh.

Ất Tỵ – 1785:

Ngày 19/1/1785, trận thủy chiến ác liệt trong lịch sử diễn ra ở Rạch Gầm – Xoài Mút giữa quân Tây Sơn với quân Xiêm La và quân nhà Nguyễn trên một đoạn sông Mỹ Tho vào lúc trời còn chưa sáng. Đây là lần duy nhất đội quân Xiêm La hiện diện trên đất nước Đại Việt và cũng là trận thất bại thảm hại cho giấc mộng Đông tiến của triều đình Xiêm La. Trận đánh kết thúc rất nhanh chóng ngay trong ngày hôm đó. Khoảng 2 vạn quân Tây Sơn đã giao chiến và đánh bại hơn 5 vạn quân địch, tiêu diệt gần 4 vạn quân Xiêm và hàng ngàn quân Nguyễn. Từ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, thanh thế và thực lực của Nghĩa binh Tây Sơn ngày càng mạnh để rồi về sau mở rộng phạm vi hoạt động ra tới Phú Xuân, Bắc Hà…

Tân Tỵ – 1821:

– Tháng Giêng âm lịch, cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành bùng nổ tại Trà Lũ (Hà Nam Ninh cũ). Nghĩa quân hoạt động khắp ven biển các tỉnh từ Quảng Yên đến Thanh Hóa, góp phần làm suy yếu triều đình nhà Nguyễn.

– Tháng Hai âm lịch, triều đình bắt đầu thành lập Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế.

– Tháng Tư âm lịch, Sử gia Phan Huy Chú dâng triều đình bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí” gồm 49 quyển, góp phần quan trọng vào lịch sử học thuật Việt Nam.

– Triều đình định lại thuế quan điền, quan thổ ở các dinh Quảng Ðức, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên và Nghệ An nhằm mục đích an dân.

Đinh Tỵ – 1857:

Tháng Tám âm lịch, vua Tự Đức ban hành lệnh cấm đạo. Chính phủ thực dân Pháp mượn cớ đẩy mạnh cuộc xâm lược Việt Nam. Ngày 21-11-1857, Hoàng đế Napoléon III (đệ tam) giao quyền cho Phó đô đốc Hải quân Rigault de Genouilly tiến hành cuộc viễn chinh Việt Nam (vào tháng 1-1858).

Kỷ Tỵ – 1869:

Chính phủ hình thành cơ quan địa chính và tiến hành đo đạc, phân định đất đai ở Nam Kỳ. Cuối năm, Triều đình Huế xin đổi 3 tỉnh miền Tây Nam Phần cho Pháp để lấy lại một tỉnh Biên Hòa.

Ất Tỵ – 1905:

– Phong trào Đông Du được Chí sĩ Phan Bội Châu khởi xướng.

– Hoàn thành tuyến đường xe lửa Hà Nội – Vinh.

Đinh Tỵ – 1917:

Cuộc “khởi nghĩa Đội Cấn” của binh sĩ yêu nước nổ ra ở Thái Nguyên do Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn) và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Đội Cấn xuất thân là một viên Đội lính Khố xanh, còn Lương Ngọc Quyến là một nhà yêu nước bị Pháp kết án tù chung thân, giam ở nhà lao Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ đêm 30/8/1917 tại trại lính Khố xanh Thái Nguyên với 131/175 binh lính Khố xanh tình nguyện tham gia Nghĩa quân.

Sau khi chiếm trại lính, Nghĩa quân tiến qua nhà lao Thái Nguyên giết viên giám ngục, giải thoát cho Lương Ngọc Quyến cùng 180 tù nhân chính trị khác. Các tù nhân đã hăng hái tham gia cùng Nghĩa quân lần lượt tấn công chiếm Tòa Công Sứ, Nhà Bưu Điện, Sở Lục Lộ, Sở Điền Bạ, Tòa Án, Nhà Đoan, Kho Bạc và đã làm chủ tỉnh lỵ trong 6 ngày; Lực lượng khởi nghĩa thành lập Quang Phục Quân do Trịnh Văn Cấn làm Đại đô đốc, Lương Ngọc Quyến làm Quân sư. Cuộc khởi nghĩa kéo dài cho đến cuối năm 1917 thì Nghĩa quân bị suy kiệt và tan rã.

Tân Tỵ – 1941:

Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) được thành lập ngày 25-10-1941, trở thành một trong những lực lượng chính trị trong phong trào kháng chiến của 2 phe Quốc – Cộng gồm các đảng phái, hội đoàn, các giới nhân sĩ, trí thức, binh sĩ, công nhân, thợ thuyền, công – tư chức, nông – ngư dân… Việt Nam trong công cuộc chống Thực dân, Quân phiệt…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.