TVGĐPT – Bài này chúng tôi lược trích trong “NGHI BÁO TIẾN ĐÔN HẬU CAO TĂNG ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG” do Hòa Thượng Thích Huyền Quang soạn xong vào ngày 6/7/1988 (23.5.ÂL Canh Thìn) Phật lịch 2532, sau tang lễ của Đức Cố Đại Lão Hòa Thượng Đệ Tam Thăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
TIẾT THỨ LÂM ĐIỆN
Các nghi tiết cử chuông trống Bát Nhã, cử nhạc khai đàn, niêm hương, dâng hương, xướng lễ, tác lễ, đảnh lễ v.v… (lược).
oOo
(Chủ lễ hạ phủ xích)
VỊNH KHAI DIÊN:
Thế là đại hạn đến rồi!
Giường hạc canh thâu phút mộng tàn,
Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhơn gian.
Thật vậy!
Hóa thân báo xả siêu sinh tử,
Chân tánh quang thu nhập Niết-bàn.
Tuy nhiên:
Chết chẳng sợ sa đường địa ngục
Sống không ham đến ngõ thiên đàng.
Thế thì Người đi đâu?
Cân bình nửa gánh về quê Phật,
Để lại trần gian ngọn Pháp tràng.
Các nghi tiết dâng hương, cử hương tán… (lược).
TUYÊN DƯƠNG THÂN THẾ ĐẠO NGHIỆP:
Kính bạch tân tịch Cao Tăng Đôn Hậu Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh!
Chúng con thiết nghĩ Hòa Thượng, Người:
Cùng Tổ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên, vâng lời thọ ký;
Vì người khai Phật trí, tại chùa Thiên Mộ, nối nghiệp độ sinh.
Nhớ Giác Linh xưa!
Người là:
Non nước anh linh, trăng sao tú khí,
Ngọc vàng tinh túy, tòng bá kiên cường.
Hơn thế nữa, Người còn là:
Phật Pháp đống lương, Tôn Môn cương kỷ,
Tào Khê pháp khí, Thiếu Thất gia trân.
Người đã từ:
Quảng Trị nhà Diệp giáng Thần, nhơn gian thác chất;
Thần Kinh cửa tùng đầu Phật, thế ngoại thê Thần.
Lúc thiếu thời, Người:
Đèn sách chuyên cần, Nho phong thế phiệt,
Bút nghiêng mài miệt, cửa Khổng sân Trình.
Trau dồi lý thuyết Năm kinh,
Xôi nấu từ chương Bốn sách.
Học tập trí tri vật cách,
Thực hành tâm chỉnh, thân tu…
Thế nhưng đại sự tử sanh, Người thường thao thức:
Không lẽ:
Kiếp sống phù du,
Nhắm mắt hồn tiêu vĩnh kiếp.
Há rằng:
Cuộc đời hồ điệp,
Xuôi tay mộng vỡ trường miên.
Biết nhờ ai mở cửa thâm huyền?
Biết hỏi ai chỉ tường diệu ngộ!
Thế rồi, Người vào Thuận Hóa:
Tâm Tịnh cầu Thầy thế độ,
Tây Thiên xin Tổ xuất gia.
Từ đó người sống cuộc đời đạo hạnh:
Thanh tịnh Thi La, quang minh Bát Nhã.
Họ Thích – Người nguyện xây nghiệp cả,
Dòng Thiền – Người mong dựng tôn cao.
Với ý chí ấy, không bao lâu Người được Bổn Sư:
Truyền áo phương bào, giữa lúc trăng sao lóng lánh,
Xoa tay viên đảnh, trong khi sương tuyết lạnh lùng.
Bổn Sư Người còn ân cần phú chúc rằng:
Trong cửa Ta:
Trừng, Giác Nguyên trước hết,
Thích Đôn Hậu sau cùng.
Làm đạo chớ mỏi mệt,
Dựng nghiệp phải siêng năng.
Sau đó Người xin lên đường tham phương du hóa:
Người đã gõ cửa:
Hồng Khê tham vấn Đại Tăng,
Thập Tháp thỉnh cầu Thượng Sĩ.
Cơ thiền huyền bí, ý Tổ mật nghiêm…
Bởi vậy Người đã:
Bao lần chịu gậy dưới thềm,
Mấy độ nghe la trong thất.
Trong cơ sự bất giác ấy, đã làm cho Người:
Mộng tan nửa giấc,
Hồn tỉnh một đời,
Cơ thiền diệu ngộ không lời,
Ý Tổ tâm truyền khó nói.
Tuy nhiên:
Cõi lòng sáng chói,
Cuộc sống thanh bình.
Sau giờ phút thay hồn thoát xác ấy, Người phát nguyện:
Thuyền Từ bể khổ đăng trình,
Xe Pháp đường mê thượng lộ.
Người đã:
Chuyển luân Pháp cổ, hàng phục quân ma.
Hiệu triệu Pháp loa, hoằng dương đạo Phật.
Khuông phò tổ quốc, cháu con Vạn Hạnh tiên sinh,
Vận động hòa bình, Thầy Tổ, Nhất Chi hậu bối.
Độ sanh: Người mở mang Phật hội,
Tiếp chúng: Người xây dựng Tăng trường.
Tuy rằng:
Luy tiết vấn vương, chim kêu phi tội,
Đấu tranh đòi hỏi, Người bảo vô công!
Hơn thế nữa, Người:
Thừa kế Thích tông: Tăng Thống đại vì chỉ giáo,
Duy trì Thánh đạo, giáo quyền Giám Luật chủ trì.
Người còn tượng trưng cho:
Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.
Tỏ lòng thấy tánh, trăng sáng nước trong.
Thanh cao Thiên Mộ Tổ phong,
Nghiêm túc Thiền Tôn đại hóa.
Vị tha vô ngã: kiến nghĩa năng vi,
Hưng từ vận bi: đương nhơn bất nhượng.
Cao cả thay, Tòng Lâm long tượng!
Quý báu thay, Đôn Hậu cao tăng!
CẢM THÁN:
Thế nhưng việc phải đến đã đến, thật vô khả nại hà:
Than ôi!
Đạo tràng gió tạt Từ đăng,
Pháp hội khói tan Tuệ cự.
Giờ nầy:
Tăng Ni đau buồn mọi xứ,
Thiện Tín thương tiếc khắp nơi.
Thậm chí:
Tòng bá lệ rơi, trống chuông buồn trổi,
Thật quyền bối rối, tàng hiện bàng hoàng!
Người chia tay Giáo Hội, Tăng Đoàn!
Người rẽ bước Niết Bàn Phật Quốc!
Tuy vân:
Hương hoa Đàm vẫn còn phưởng phất,
Hồn cỏ Húy luống những mơ màng.
Hoặc giả:
Chơn tánh thường an,
Hóa thân biến dịch.
Nên Người:
Theo Thầy họ Thích, quảy dép Tây Thiên!
Từ Chúng nhà Thiền, treo bình Đông Độ!
Trước tình cảnh ly biệt nầy:
Sông Hương kinh hoàng biến cố!
Núi Ngự ngơ ngác tình hình!
Đến đây:
Trước đài bày tỏ hiếu tình,
Trên tọa mặc nhiên hứa khả.
TUYÊN PHÁP NGỮ:
Kính bạch Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng!
Chúng tôi nghĩ rằng:
Biết bao giờ nghe Thầy hỏi đá: Phật tánh vân hà?
Biết mấy thuở thấy Tổ cầm hoa: Pháp thân như thị!
Như Người đã biết:
Sanh tử, Niết-bàn bất dị,
Bồ-đề, phiền não vô thù.
Chỉ tiếc rằng:
Nhất biệt, thiên thu.
Xin mong được:
Tam sanh tái ngộ.
Thế thôi!
Các nghi tiết nhạc chuyên thân phụng thỉnh, thượng hương, tam thỉnh, duy nguyện, dâng trà, phục nguyện, xướng sớ v.v… (lược).
TUYÊN ĐỌC VĂN SỚ:
Kính bạch Thiên Mộ tân tịch Hòa Thượng Giác Linh!
Chúng tôi cung kính nghe rằng:
Đại Phật xuất hưng, tự có ngày Niết-bàn an nghỉ;
Tôn Sư nhập diệt, há không dịp đền đáp thâm ân.
Sự ấy rất cần, lý đâu lại chấp.
Sớ rằng:
Nay có Tỳ-kheo hiếu đồ …, …, … cùng cả bốn chúng Tăng Ni, mười phương Phật Tử thuộc các Tổ đình Thiền Tôn, Linh Mộ, Tây Thiên… ở cố đô Huế.
Giờ này cung kính quỳ trước Tổ đình,
Chí thành dâng lên Sư tọa:
Tâm hoa Bát Nhã, đạo vị Thiên Trù, thanh tịnh trai tu, thiền duyệt pháp hỷ. Ngõ đền ơn khai thị, hầu tỏ dạ tiếc thương, hiếu tình hương phẩm cúng dường, Linh Giác ai liên chứng giám.
Tất cả chúng tôi tự nghĩ rằng, Tôn Sư, Người:
Pháp thân diệu trạm, Phật tánh linh minh,
Thuyết pháp độ sinh, tham thiền kiến tánh.
Non thần viên đảnh, nghe nhiều thấy rộng phẩm cao,
Ruộng phước phương bào, giống thánh hạt lành giá quý.
Người là:
Trần triêu đạo sĩ,
Tịch tịnh thiền tăng.
Than ôi!
Đau lòng trước cảnh sơn băng,
Tủi dạ trong tình hà ẩm.
Rồi đây:
Áo mão khói mờ màu Giáo phẩm,
Gậy giày mưa xóa dấu gót Tăng quan.
Giờ thì:
Tịch mịch Thiền sàng,
Cô liêu Linh tọa.
Từ nay:
Ai phò cơ cao nghiệp cả?
Ai truyền diệu kệ chơn thuyên?
Đức lớn khó đền,
Lòng hèn nào bổ!
Nay thời:
Đạo tràng chánh độ, thiết lễ tôn vinh, nghi trượng an linh, tuyên dương công đức; cẩn cụ sớ văn tuân thức, hòa nam bái bạch xin nghe:
Nam Mô Sắc Tứ Quốc Tự Thiên Mộ Tổ Đình Trụ Trì Tân Tịch Đôn Hậu Cao Tăng Hòa Thượng Đại Lão Giác Linh tác đại chứng minh.
oOo
Các nghi tiết thượng sớ, hiến trà, phụng thực, tụng Bát Nhã tâm kinh, hồi hướng, tán lưu, kết diên… (lược).
———=oOo=———
Bản thảo nghi nầy soạn xong ngày 23 tháng 5 năm Canh Thìn, Phật lịch 2532, nhằm ngày 6 tháng 7 năm 1988 Dương lịch, tại Hạ chùa Hội Phước – Quảng Ngãi.
Hậu học Huyền Quang hinh hương cung soạn
Cúng dường tán thán Đôn Hậu Cao Tăng.
Duy nguyện Thiền Tăng vĩnh thùy trường dạ.