Tổ MÃ TỔ (ĐẠO NHẤT) – 馬 祖 道 一
(709 – 788 T.L).
oOo
Tổ Sư họ Mã, sinh năm Kỷ Dậu (709), niên hiệu Cảnh Long thứ 3 đời vua Đường Trung Tông tại Thập Phương, Hán Châu. Vì người đời sau quá kính trọng Ngài nên nhân Ngài họ Mã mà gọi là Mã Tổ (ông Tổ họ Mã).
Thuở nhỏ Ngài dung mạo lạ thường, đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài dưới mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé Sư đến chùa La Hán xuất gia với Hòa Thượng Đường ở Từ Châu. Sau Ngài thọ Cụ-túc với Luật Sư Viên ở Du Châu.
Ðời Ðường, khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Ngài tập thiền định ở viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền Sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham học với Ngài có sáu người, chỉ riêng Ngài được truyền tâm ấn.
Sau khi tạm biệt thầy, Ngài đến Kiến Dương, ở ngọn núi Phật Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam Dương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L) Liên Soái Lộ Từ Cung và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Ngài khai đường để truyền bá tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
Một hôm Ngài dạy Chúng:
– “Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp thượng thừa nhất tâm khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp Tâm này mỗi người tự có nên kinh Lăng-già nói: “Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp” (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn).
Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài Tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt Tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có. Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai Thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua, đâu còn có việc gì”. Các ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Hán tự:
心 地 隨 時 說
菩 提 亦 祇 寧
事 理 俱 無 礙
當 生 即 不 生
Dịch:
Ðất Tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
oOo
Có vị Tăng hỏi:
– Hòa Thượng vì cái gì nói tức Tâm tức Phật?
Ngài đáp:
– Vì vỗ con nít khóc.
– Con nít nín rồi thì thế nào?
– Phi Tâm phi Phật.
– Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
– Nói với y là “phi vật”.
– Khi chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
– Hãy dạy y thể hội đại đạo.
oOo
Có vị Tăng hỏi:
– Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ Sư từ Ấn Ðộ sang?
Ngài đáp:
– Hôm nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng.
Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng. Trí Tạng bảo:
– Sao không hỏi Hòa Thượng?
Tăng đáp:
– Hòa Thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí Tạng nói:
– Hôm nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.
Tăng đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:
– Ðến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.
Tăng trở lại trình Ngài, Ngài bảo:
– Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.
oOo
Cư sĩ Long Uẩn đến hỏi:
– Nước không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này thế nào?
Ngài đáp:
– Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân xương?
Uẩn bảo:
– Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn lên!
Ngài liền nhìn thẳng xuống. Uẩn nói:
– Một cây đàn cầm không dây mà Thầy đàn rất hay.
Ngài liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Ngài trở về phương trượng. Uẩn theo sau thưa:
– Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
oOo
Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Ngài xem trăng. Ngài hỏi:
– Ngay bây giờ nên làm gì?
Trí Tạng thưa:
– Nên cúng dường.
Hoài Hải thưa:
– Nên tu hành.
Phổ Nguyện phủi áo ra đi.
Ngài bảo:
– Kinh vào Tạng, thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.
oOo
Hoài Hải hỏi:
– Thế nào là chỉ thú Phật Pháp?
Ngài đáp:
– Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư lại hỏi Hoài Hải:
– Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài Hải dựng đứng cây phất tử. Sư bảo:
– Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
Hoài Hải ném cây phất tử xuống.
oOo
Tăng hỏi:
– Thế nào được hiệp đạo?
Ngài đáp:
– Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tăng hỏi:
– Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Ðộ sang?
Ngài liền đánh và nói:
– Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ cười ta.
oOo
Ðặng Ẩn Phong từ biệt Ngài đi nơi khác, Ngài hỏi:
– Ði đến đâu?
Ẩn Phong thưa:
– Ði đến Thạch Ðầu.
– Ðường Thạch Ðầu trơn.
– Có cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn Phong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một vòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
– Ấy là tông chỉ gì?
Thạch Ðầu nói:
– Trời xanh! Trời xanh!
Ẩn Phong không đáp được, lại trở về thưa với Ngài. Ngài bảo:
– Ngươi nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói: “trời xanh!” ngươi “hư! hư!”
Ẩn Phong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước. Thạch Ðầu bèn: Hư! hư!
Ẩn Phong không đáp được, lại trở về trình với Ngài. Ngài bảo:
– Ta đã nói với ngươi “đường Thạch Ðầu trơn”.
oOo
Có vị Giảng Sư đến hỏi:
– Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Ngài hỏi lại:
– Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
– Tôi giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
– Ðâu không phải là sư tử con?
– Không dám.
Ngài thốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảng Sư nói:
– Ðây là pháp.
– Là pháp gì?
– Pháp sư tử ra khỏi hang.
Ngài bèn im lặng.
Giảng Sư nói:
– Ðây cũng là pháp.
– Là pháp gì?
– Pháp sư tử ở trong hang.
– Không ra không vào là pháp gì?
Giảng Sư không đáp được bèn từ giã đi ra đến cửa, Ngài gọi:
– Chủ tọa!
Giảng Sư xoay đầu lại.
Ngài hỏi:
– Là pháp gì?
Giảng Sư cũng không đáp được.
Sư bảo: – Ông thầy độn căn.
oOo
Một hôm Sư dạy Chúng:
– “Ðạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Thánh Hiền, là hạnh Bồ-tát.” Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói “pháp môn Tâm địa”, tại sao nói “Vô tận đăng”? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: “Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn.” Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp giới; lập chân như là chân như; lập lý tất cả pháp trọn là lý; lập sự tất cả pháp trọn là sự; nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không; bao nhiêu nguồn nước thì có, mà bao nhiêu tánh nước thì không; bao nhiêu sum la vạn tượng thì có, mà bao nhiêu hư không thì không; bao nhiêu lời nói đạo lý thì có, mà bao nhiêu tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một Tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà mình.
Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật Pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: “Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật.” Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v… tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không gì hơn vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như Lai tàng, xuất triền gọi là Pháp Thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm; hay lớn hay nhỏ; hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi; vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: “Như không chẳng chỗ nương.” Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh Văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê Bản Tâm mình, ngộ là ngộ Bản Tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của Tâm liền trừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông”.
Ðệ tử của Ngài được nhập thất (được vào thiền thất, là đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời Ðường, niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L) khoảng tháng giêng, Ngài lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị giả:
– Thân cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này.
Nói xong, Ngài trở về.
Ðến ngày mùng bốn tháng hai, Ngài có chút bệnh; tắm gội xong, ngồi kiết già nhập diệt, thọ 80 tuổi, được 60 tuổi hạ. Sau vua sắc ban hiệu Ðại Tịch Thiền Sư. Đệ tử nối pháp có Thiền Sư Hoài Hải./.