365 Lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma – Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay (Phần 4.b)

 

 

365 Lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma
Cẩm nang cho cuộc sống ngày nay

Matthieu Ricard ghi chép và sắp đặt bản gốc
Hoang Phong chuyển ngữ

Đức Đạt-lai Lạt-ma và nhà sư Matthieu Ricard

 

Lời giới thiệu của người chuyển ngữ:

Quyển sách “365 Lời Khuyên Tâm Huyết Của Đức Đạt-lai Lạt-ma – Cẩm Nang Cho Cuộc Sống Ngày Nay” (365 Méditations quotidiennes du Dalai-Lama pour éclairer votre vie) của Đức Đạt-lai Lạt-ma cùng nhà sư Matthieu Ricard, đã được nhà xuất bản Presses de la Renaissance tại Paris ấn hành lần đầu tiên năm 2001, và sau đó đã được tái bản nhiều lần và cũng đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Quyển sách này cũng có nhiều ấn bản khác nhau, mang nhiều tựa khác nhau, trong số này có nhiều ấn bản đã được tóm lược. Một trong số các ấn bản rút ngắn này – gồm 53 câu thay vì 365 câu – cũng đã được dịch sang tiếng Việt và đã được Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành tại Việt Nam năm 2009, và sau đó cũng đã được Nhà Xuất Bản Phương Đông tái bản năm 2011 (“Những lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-lai Lạt-ma”, Hoang Phong chuyển ngữ, nguyên bản tiếng Pháp là “Dalai Lama – Conseils du coeur”, Pocket, 2003). Lần tái bản bằng tiếng Pháp gần đây nhất và cũng đầy đủ nhất gồm toàn bộ 365 câu, là vào năm 2017. Bản chuyển ngữ tiếng Việt dưới đây được dựa vào ấn bản mới này. Người đọc cũng có thể tham khảo bản tiếng Anh của quyển sách này: “365 Dalai-Lama: Daily Advice From The Heart” (Hampton Roads Publishing Company, 2012).

Các câu “suy tư” trong quyển sách này chính thật là những “lời khuyên”, giúp chúng ta biến cải chính mình hầu đối phó hay thích nghi với mọi cảnh huống trong cuộc sống, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ trên thân xác đến bên trong nội tâm mình. Những lời khuyên rất thiết thực nhưng cũng thật thâm sâu này của Đức Đạt-lai Lạt-ma đã được nhà sư Matthieu Ricard trực tiếp ghi chép bằng tiếng Tây Tạng, và sau đó đã được học giả Christian Bruyat dịch sang tiếng Pháp.

Nếu nhìn Phật giáo như là một tín ngưỡng thì tín ngưỡng đó không hề bị ám ảnh bởi cái chết và những lời hứa hẹn phía sau cái chết, bởi vì đối với Phật giáo thì cái chết cũng chỉ là một thành phần của sự sống mà thôi. Những lời khuyên trong quyển sách này nhất thiết chỉ nói lên sự sống đó với tất cả các khía cạnh khó khăn cũng như thuận lợi của nó. Thật ra thì đấy cũng là những gì hiện lên bên trong tâm thức mình và trên thân xác mình trong từng ngày. Do đó chúng ta có thể xem quyển sách này như là một quyển sách “gối đầu giường”, hoặc một người bạn đồng hành trong cuộc sống của mình. Mỗi khi cần phải đối phó với một nghịch cảnh hay gặp phải một vấn đề nan giải thì biết đâu chúng ta cũng có thể tìm được một vài lời khuyên trong sách để suy ngẫm hầu tìm một giải pháp thích nghi.

Quyển sách gồm tất cả năm phần:

Phần I: Suy tư về sự sống (câu 1 đến 48):

  • Sự sống nói chung (1-16).
  • Tuổi trẻ (17-35).
  • Tuổi trưởng thành (36-42).
  • Tuổi già (43-48).

Phần II. Suy tư về các cảnh huống trong cuộc sống (câu 49 đến 129):

  • Đàn ông và đàn bà (49-53).
  • Cuộc sống trong gia đình (54-70).
  • Cuộc sống độc thân (71-74).
  • Cuộc sống tập thể (75-79).
  • Cuộc sống sung túc (80-92).
  • Cuộc sống trong cảnh nghèo khó (93-97).
  • Bệnh tật (98-101).
  • Những Kẻ tật nguyền và những người chăm sóc họ (102-105).
  • Người sắp lìa đời và những người thân chung quanh (106-118).
  • Công ăn việc làm và tình trạng thiếu giải trí (119-120).
  • Nhà giam và các tù nhân (121-129).
  • Đồng tính luyến ái (130-132).

Phần III. Suy tư về cuộc sống tập thể trong xã hội (câu 133 đến 181):

  • Chính trị (133-139).
  • Công lý (140-144).
  • Tương lai thế giới (145-147).
  • Giáo dục (148-150).
  • Khoa học và kỹ thuật (151-153).
  • Thương mại và kinh doanh (154-156).
  • Nghệ thuật viết lách và nghề làm báo (157-161).
  • Canh nông và môi trường (162-167).
  • Chiến tranh (168-175).
  • Dấn thân vì kẻ khác (176-181).

Phần IV. Suy tư về các khó khăn trong cuộc sống (câu 182 đến 304):

  • Hạnh phúc (182-188).
  • Bất hạnh (189-198).
  • Yếm thế (199-210).
  • Sợ hãi (211-215).
  • Tự tử (216-219).
  • Cô đơn và sự cô lập (220-229).
  • Giận dữ (230-241).
  • Kiềm tỏa dục vọng (242-247).
  • Ganh tị và chứng ghen tuông (248-253).
  • Kiêu hãnh (254-257).
  • Khổ đau (258-267).
  • Rụt rè (268-271).
  • Do dự (272).
  • Thù ghét chính mình (273-276).
  • Nghiện rượu và ma túy (277-280).
  • Đam mê tình ái (281-285).
  • Thiếu suy nghĩ (286-289).
  • Tính hay nói xấu (290-294).
  • Tính độc ác (295-303).
  • Thờ ơ (304-308).

Phần V. Suy tư về cuộc sống tâm linh (câu 309 đến 365):

  • Người có đức tin (309-315).
  • Người vô thần (316-327).
  • Người tu sĩ và cuộc sống nơi tu viện (328-339).
  • Người hành thiền (340).
  • Đức tin (341-344).
  • Các giáo phái (345-347).
  • Người muốn bước theo con đường Phật Giáo (348-356).
  • Việc tu tập Phật Giáo (357-365).

Các hình từ 1,đến 6: Bìa một vài ấn bản của quyển sách nổi tiếng này của Đức Đạt-lai Lạt-ma.

Hình 7: Ấn bản mới năm 2017 và một đoá hoa trong khu vườn của người chuyển ngữ, xin quý tặng độc giả bốn phương.

 

Phần IV: SUY TƯ VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CUỘC SỐNG

Suy tư về sự sợ hãi

211

Nhiều người vừa thức giấc thì tâm trí đã bị tràn ngập bởi vô số các mối lo âu không nguyên cớ gì cả. Cảm tính đó bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Một số người lúc bé bị cha mẹ hoặc anh chị ngược đãi. Một số bị lạm dụng tình dục. Họ bị người khác đối xử tàn tệ nhưng không dám nói ra. Sự sợ hãi đó ăn sâu dần vào tâm thức khiến họ cảm thấy đau buồn. Nếu họ tìm được một người gần gũi với mình để thổ lộ những gì mình từng phải chịu đựng, và nếu người này biết khuyên nhủ họ là các chuyện ấy đã qua rồi, tất cả đã đi vào quá khứ, thì nhờ đó họ cũng có thể khép lại một quãng đời mình. Trên xứ Tây Tạng người ta thường bảo nhau nếu muốn khai thông một cái kèn bằng vỏ ốc thì phải thổi vào đó (để tống hết các thứ dơ bẩn ra ngoài, đấy là cách giúp mình quên đi và tha thứ những chuyện đã qua rồi).

212

Lúc còn bé tôi rất sợ các gian phòng tối om. Thời gian trôi, sự sợ hãi đó cũng trôi theo. Chuyện đó cũng có thể xảy ra khi chúng ta tiếp xúc với người lạ: tâm thức càng khép kín (tương tự như một gian phòng tối om) thì sự sợ hãi sẽ càng gia tăng (sợ hãi sự tối tăm bên trong tâm thức mình) và các bạn càng cảm thấy kém an toàn hơn. Trái lại nếu càng cởi mở (tương tự như một gian phòng với các cánh cửa mở toang) thì các bạn càng cảm thấy thoải mái hơn, Đấy cũng là kinh nghiệm của bản thân tôi. Dù phải tiếp xúc với một người có chức phận cao sang, một kẻ ăn xin hay một người bình dị, thì đối với tôi giữa họ chẳng có một chút khác biệt nào, điều quan trọng hơn cả là một nụ cười trên môi và một gương mặt cởi mở, thấm đậm tình người.

213

Mỗi khi cảm thấy lo sợ vì mất hết tự tin và nghĩ rằng tất cả những gì mình làm sẽ không tránh khỏi thất bại, thì các bạn hãy suy nghĩ thêm một chút, hãy tìm hiểu xem tại sao mình lại chấp nhận thua cuộc khi mới bắt đầu. Nhất định các bạn sẽ không tìm được một lý do chính đáng nào cả. Chính cách suy nghĩ của các bạn đã tạo ra các vấn đề khó khăn cho các bạn, nhưng tuyệt nhiên không phải là vì các bạn thiếu khả năng (chính các độc tố tâm thần khiến cho sự suy nghĩ của mình thiếu sáng suốt và mất tự tin, trong khi đó bản chất vá khả năng con người đều ngang hàng nhau nơi mỗi cá thể. Thí dụ trường hợp hai người: một người bị bệnh tâm thần và một người được xem là “bình thường”. Độc tố vô minh trong tâm thần của người bệnh nhiều hơn và mạnh hơn so với độc tố trong tâm thần của người được xem là “bình thường” thế thôi. Đối với các khía cạnh khác thì cả hai đều như nhau).

214

Lòng từ bi đích thật chỉ có thể hiển lộ khi nào các bạn ý thức được kẻ khác cũng có quyền được hưởng hạnh phúc như mình. Lòng từ bi đó sẽ giúp mình ý thức được trách nhiệm của mình đối với kẻ khác. Khi đã phát động được sự ý thức đó thì tự nhiên sự tin tưởng nơi mình cũng sẽ gia tăng. Sự tin tưởng đó sẽ làm giảm bớt sự sợ hãi và giúp cho sự tự tin nơi mình càng vững chắc hơn. Ngay từ lúc đầu, trước khi bắt tay vào một công việc gay go nào đó, nếu các bạn phát động được một sự quyết tâm thật mạnh rồi sau đó dù có thất bại thì các bạn vẫn giữ nguyên được nghị lực lúc ban đầu để bắt tay làm lại, dù là lần thứ hai hay thứ ba cũng chẳng có vấn đề gì. Nếu chủ đích minh bạch thì cứ cố gắng không nên lùi bước.

215

Phương pháp hữu hiệu nhất chống lại sự lo âu là cách bớt nghĩ đến bản thân mình và quan tâm đến kẻ khác nhiều hơn. Khi nào các bạn thật sự nhận thấy được các khó khăn của kẻ khác thì tầm quan trọng của các khó khăn của mình cũng sẽ giảm bớt đi. Khi giúp đỡ kẻ khác thì sự tự tin nơi mình sẽ gia tăng và các sự lo lắng trong nội tâm mình cũng sẽ giảm xuống. Tất nhiên sự giúp đỡ đó phải thành thực, nếu chỉ vì mục đích loại bỏ các sự bất an của mình, thì tác động sẽ ngược lại, đấy chỉ là cách khiến mình ngày càng thu mình kín đáo hơn bên trong chính mình và các sự sợ hãi của mình.

Suy tư về sự tự tử

216

Quả là một việc tế nhị khi phải đề cập đến vấn đề tự tử. Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến quyết tâm tự tử. Có những người tự tử vì bị tràn ngập bởi các cảm tính ưu phiền và lo lắng; có những người tự tử vì tuyệt vọng; có những người tự tử vì quá tự ái khi người khác làm hay không làm một việc gì đó đối với mình (đối xử tàn tệ hay thờ ơ với mình chẳng hạn); có những người tự tử vì tin rằng mình chỉ là một người vô tích sự, chẳng làm được trò trống gì; có những người tự tử vì quá tức giận khi bị tràn ngập bởi một sự thèm khát quá hung hãn không lối thoát; có những người tự tử đơn giản chỉ vì cứ để mặc cho những mối lo buồn xâm chiếm mình; ngoài ra cũng còn vô số các nguyên nhân khác nữa…

217

Nói chung tự tử là một cách chối bỏ tất cả các giải pháp trong tương lai có thể giải quyết các khó khăn của mình trong hiện tại. Dù đang trong lúc này mình gặp toàn những chuyện khó khăn, thế nhưng điều đó không có nghĩa là một ngày nào đó mình không tìm được một giải pháp khả dĩ giải quyết được các khó khăn ấy của mình.

218

Hầu hết các trường hợp tự tử đều xảy ra trong lúc xúc cảm gia tăng cực độ. Là con người chúng ta không được phép chọn một quyết định cực đoan như thế chỉ vì một sự giận dữ, thèm khát hay lo âu bất chợt bùng lên với mình (chữ “thèm khát” mang ý nghĩa rất rộng trong Phật Giáo, không phải chỉ là một sự thèm muốn hay tham lam, mà là một hình thức “bất toại nguyện” thật hung hãn và sâu xa phát sinh từ bên trong tâm thức mình, do đó phải hết sức tỉnh táo và cảnh giác trước các thứ tạo tác tâm thần hiện ra trong tâm thức mình, hầu chủ động chúng). Các hành động bốc đồng đó khiến chúng ta dễ phạm vào sai lầm. Là con người chúng ta có khả năng suy nghĩ, vì thế tốt hơn là nên chờ lúc nào tìm được sự bình tĩnh và thư giãn thì hãy quyết định, trước khi phạm vào một hành động không hàn gắn được.

219

Vị giám hộ của tôi là Thrijang Rinpoché (khi còn trẻ Đức Đạt-lai Lạt-ma luôn có các vị giám hộ bên cạnh chăm lo cho Ngài, Trijang Yeshe là vị giám hộ lúc Ngài 19 tuổi) thuật lại với tôi câu chuyện về một người tại tỉnh Khams, người này cảm thấy mình vô cùng bất hạnh bèn có ý định nhảy xuống sông Tangpo tại Lhassa. Anh ta mang theo một chai rượu để uống trước khi nhảy xuống nước để tự tử. Lúc ra đi thì nội tâm bị tràn ngập bởi đủ mọi thứ xúc cảm nên rất hăng hái, thế nhưng khi đến bờ sông thì anh ta lại cảm thấy chưa muốn nhảy ngay, bèn mở chai rượu uống một ít. Một lúc sau vẫn cảm thấy chưa đủ can đảm, lại uống thêm một ít nữa. Sau cùng thì quay về nhà cặp nách chai rượu không còn giọt nào (dù quyết tâm tự tử thế nhưng nếu cố gắng “cầm cự” thêm vài phút thì sự suy nghĩ của mình cũng có thể sẽ chuyển theo một chiều hướng khác. Tâm thức luôn ở trong tình trạng biến động và “bay nhảy”, nguyên nhân là do nghiệp và cơ duyên luôn tương tác với nhau và cùng nhau chuyển động. Trên dòng chuyển động đó của tri thức không nên tìm cách bám vào một thể dạng nào cả, nhất là các thể dạng cực đoan và tiêu cực).

Suy tư về tình trạng cô đơn và sự cô lập

220

Theo kết quả thăm dò thì một phần lớn người Mỹ cho biết mình rất khổ sở vì cảm thấy cô đơn. Cuộc thăm dò này kéo dài suốt hai tuần vừa qua (Đức Đạt-lai Lạt-ma nêu lên sự kiện này khi được phỏng vấn năm 2001) cho thấy một phần tư những người trưởng thành (trong xã hội Mỹ) thú nhận mình cảm thấy vô cùng cô đơn, cảm tính này dường như vô cùng phổ biến.

Trong các thành phố lớn hàng ngàn người đi lại trên đường phố, thế nhưng không thấy ai buồn ném cho nhau một cái nhìn. Nếu bốn mắt bất chợt gặp nhau thì họ cũng chẳng nhìn nhau với một nụ cười, trừ trường hợp miễn cưỡng vì xã giao. Trong các toa xe điện, họ ngồi cạnh nhau hàng giờ, nhưng không hề trao đổi với nhau một lời nào. Điều đó chẳng phải là lạ lùng hay sao?

Chủ nghĩa cá nhân, luật pháp bảo vệ sự tự do cá nhân, xã hội quy định các quy tắc sinh hoạt cá nhân, mỗi người có quyền nuôi dưỡng “cái tôi” ích kỷ của mình…, tất cả đã tạo ra một sự sinh hoạt đi ngược lại với nguyên lý tương liên và tương tác (interdependence) của thế giới hiện tượng, tách cá thể ra khỏi tập thể và cả hiện thực chung quanh. Đó là nguyên nhân sâu xa đưa đến các cảm tính cô đơn, lo âu và sợ hãi. Nhiều người rất sợ sự trống trải, cảm tính cô đơn và lẻ loi thường mượn những giây phút đó để bùng lên. Các sinh hoạt ồn ào: ca hát, lễ hội, tiệc tùng, cờ bạc, thể thao, các trò chơi, nghệ thuật, triển lãm, du lịch…, nói chung là các hình thức giải trí do con người tạo ra để che khuất và lấp đầy những khoảng trống trải đó trong tâm hồn mình. Trái lại một trong các chủ đích của phép thiền định trong Phật giáo là làm hiện lên chính sự trống trải đó bên trong tâm thức mình, hầu tìm hiểu nó, hòa nhập và tinh khiết hóa nó, hầu biến nó trở thành một sự “trống trải” thật êm ả và trong suốt, một sự yên lặng thiêng liêng và sâu xa, một bầu không gian bao la, ngập tràn hân hoan, trong đó tất cả chúng sinh đều gần gũi với nhau và thương yêu nhau – gccncntV.

221

Tôi có cảm giác sự cô đơn phát sinh từ hai nguyên nhân chủ yếu. Trước hết là vì ngày nay chúng ta quá đông đúc. Khi thế giới còn thưa thớt, người ta còn ý thức được thật mạnh là mình thuộc chung trong một gia đình nhân loại, người ta hiểu nhau và cảm thấy gần gũi với nhau hơn. Kể cả ngày nay trong các thôn ấp nơi đồng quê, người ta vẫn còn cảm nhận được điều đó, người dân quen biết nhau, cho nhau mượn dụng cụ và máy móc để canh tác, hoặc cùng hợp tác với nhau trong các công việc quy mô hơn. Ngày xưa người ta thường họp nhau thành đoàn, gọi nhau đi nhà thờ, cùng cầu nguyện. Họ có nhiều dịp gặp gỡ nhau và hàn huyên với nhau hơn.

Ngày nay, địa cầu lâm vào tình trạng thặng dư dân số, hàng triệu người chen chúc trong các thành phố lớn. Quả không khó để nhận thấy mối quan tâm quan trọng nhất của họ là việc làm và tiền lương mỗi tháng. Dường như mỗi người tự tạo ra cho mình một cuộc sống biệt lập. Máy móc gia dụng ngày nay thật tối tân tạo cho chúng ta một cuộc sống không cần lệ thuộc vào người khác, điều đó khiến chúng ta có cảm giác – nên hiểu rằng cảm giác này hoàn toàn sai lầm – là mọi người chung quanh chỉ giữ một vai trò ngày càng thứ yếu đối sự an vui của cá nhân mình. Tình trạng đó rất dễ đưa đến cách cư xử dửng dưng đối với những người chung quanh và tạo ra cảm tính cô đơn bên trong chính mình.

222

Nguyên nhân thứ hai tạo ra cảm tính cô đơn trên đây theo tôi là vì trong các xã hội tân tiến ngày nay tất cả mọi người đều bận rộn một cách khủng khiếp. Chẳng hạn như khi cất lời thăm hỏi một người nào đó với một câu thật ngắn: “Bạn có khỏe không?”, thỉ chúng ta cũng có cảm giác là mình vừa đánh mất hai giây quý báu trong cuộc đời mình. Công việc vừa xong là vùi đầu vào tờ báo: “Nào, xem có tin tức gì mới lạ không?”. Hàn huyên với một người bạn cũng là một cách phí phạm thì giờ

Mỗi khi đọc lại vài vần thơ Đường thì dường như qua hình ảnh con trăng giữa trời, tiếng thông reo và suối chảy, chúng ta cũng có cảm giác chia sẻ và thừa hưởng được một chút thanh thản và nhàn hạ nào đó của các thi nhân thời bấy giờ. Cách nay chưa đầy hai thế kỷ, Bà Huyện Thanh Quan dắt bốn con còn nhỏ trở về quê gần Hà Nội, sau khi chồng làm quan và mất tại kinh đô Huế. Thời bấy giờ từ Bắc vào kinh đô Huế hoặc ngược lại thường là phải dùng thuyền, nếu lần theo đường bộ xuyên qua núi rừng thì phải dùng ngựa hay xe bò và phải mất hàng tháng. Lúc trèo lên đèo Ngang, bà đã cảm tác vài vần thơ thật man mác: “…Lom khom dưới núi tiều vài chú, lác đác bên sông rợ mấy nhà…, dừng chân đứng lại, trời non nước, một mảnh tình riêng ta với ta”.

Quang cảnh vắng vẻ và mênh mông đó dường như rất xa lạ với những con người hối hả ngày nay. Nhiều người dường như cũng không hiểu được sự tinh tế trong các vần thơ của bà, và đã sửa cả thơ của bà, chẳng hạn như “lác đác bên sông rợ mấy nhà” thì lại sửa là “lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Các chữ “chợ mấy nhà” chẳng mang ý nghĩa gì cả giữa cảnh núi rừng hoang dã. Chữ “rợ” ngày nay không còn dùng nữa mà gọi là “các bộ tộc ít người” hay “dân tộc thiểu số”. “Rợ mấy nhà” là vài mái nhà sàn “lác đác” của các bộ tộc đó nơi rừng núi hoang vu. Quang cảnh đìu hiu đó phản ảnh niềm cô quạnh và hoang vắng trong lòng người quả phụ. Thế nhưng qua “một mảnh tình riêng” Bà Huyện Thanh Quan cũng cảm thấy ấm áp và rất gần với người chồng vừa mới mất: “Chàng ơi, giữa cảnh hoang vu này, một mảnh tình riêng ta với ta”.

Trên đây là một thí dụ cho thấy dù “nghìn trùng xa cách” và ở một nơi hoang vắng, thế nhưng tình thương – dù nhuốm bởi một màu sắc nào cũng vậy – đều có thể kéo con người đến gần với nhau. Trái lại, ngày nay con người chen chúc nhau trong một không gian chật hẹp, nhưng hoàn toàn xa lạ với nhau và với cả chính mình. Đó là cảm tính cô đơn thật sâu xa trong tâm hồn mỗi người trong chúng ta trong thế giới ngày nay mà Đức Đạt-lai Lạt-ma nêu lên trong lời khuyên trên đây – gccncntV.

223

Sông trong các thành phố đông đúc người ta thường quen biết nhiều người, vì thế phải chào hỏi nhau, phải hàn huyên hết người này đến người khác. Quả hết sức phiền toái. Chính vì vậy mà người ta luôn tìm cách tránh né mọi sự giao tiếp. Chẳng may nếu có một người nào đó muốn gợi chuyện với mình thì mình có cảm giác là người ấy đang tìm cách xâm phạm vào đời sống riêng tư của mình.

224

Sống trong các thành phố lớn người ta thường cảm thấy cô đơn, điều đó cho thấy không phải là do thiếu người để mình kết bạn, mà đúng hơn là thiếu sự trìu mến giữa con người với nhau. Đấy là nguyên nhân khiến sức khỏe tâm thần của họ thật sa sút. Trái lại những người lớn lên trong một khung cảnh đầm ấm sẽ có một sự phát triển tích cực và hài hòa hơn về đủ mọi mặt, từ thân xác, tâm thần và cả thái độ hành xử trong cuộc sống.

225

Các xã hội ngày nay đã đánh mất hết các giá trị nhân bản, biến cuộc sống trở thành một sự sinh hoạt máy móc. Sáng sớm đi làm. Công việc chấm dứt thì giải trí trong các hộp đêm hoặc các nơi khác. Về đến nhà thì đã khuya, mệt nhoài, ngủ được vài giờ. Sáng hôm sau, nửa thức nửa ngủ, đầu óc mơ mơ màng màng, nhưng cũng phải đi làm. Chẳng phải người dân thành phố trải qua phần lớn đời mình trong cuộc sống đó hay sao? Mỗi người là một bộ phần cơ giới, dù muốn hay không thì họ cũng phải gia nhập vào sự vận hành chung của guồng máy đó. Sau một thời gian thì cuộc sống trở nên hết sức nặng nề, khiến mỗi người phải tự tìm cách nấp mình phía sau thái độ dửng dưng.

226

Không nên làm cho mình phải phờ phạc vào buổi tối. Sau khi hết việc thì nên về nhà. Ăn uống thong thả, sau đó thưởng thức một tách trà hay một thức uống khác, đọc sách, tạo cho mình một sự thư giãn và thoải mái trước khi vào giường. Sáng hôm sau dậy sớm. Nếu phải đi làm thì tâm trí cũng sẽ tươi mát và minh mẫn hơn. Tôi đoan chắc cuộc sống của các bạn sẽ thay đổi hẳn so với trước đây.

227

Tất cả mọi người đều công nhận cảm tính cô đơn chẳng ích lợi cũng chẳng thú vị gì. Chúng ta phải tìm mọi cách để chống lại cảm tính đó. Thế nhưng cảm tính đó lại phát sinh từ quá nhiều nguyên nhân và điều kiện, vì thế phải chận đứng nó thật sớm, ngay từ lúc còn sống trong gia đình. Thật vậy gia đình là đơn vị căn bản nhất của xã hội và cũng là nơi mà chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc và nẩy nở trong tình thương yêu và sự trìu mến (tình thương yêu và sự trìu mến trong bầu không khí gia đình sẽ giúp chúng ta ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của các phẩm tính đó. Khi bước vào đời, với số vốn liếng mà trước đây chúng ta được thừa hưởng trong gia đình sẽ giúp chúng ta hòa mình dễ dàng hơn với người khác. Tuy nhiên đó cũng chỉ là một cấp bậc rất thấp. Phải hiểu rằng cảm tính cô đơn là một sự tạo tác tâm thần, liên hệ đến nhiều nguyên nhân / nghiệp và nhiều điều kiện / cơ duyên. Nếu muốn loại bỏ dứt khoát cảm tính đó thì phải cần đến phép luyện tập thiền định đã được nói đến trên đây).

228

Nếu chúng ta cảm thấy thù ghét và oán hận kẻ khác thì kẻ khác cũng rất có thể sẽ cảm thấy như thế đối với mình, sự nghi kỵ và sợ hãi theo đó sẽ phát sinh, tạo ra một khoảng cách giữa mọi người với nhau, và các bạn sẽ không khỏi cảm thấy cô đơn và trơ trọi. Nào có phải tất cả các thành phần trong tập thể xã hội đều có cái cảm tính tiêu cực ấy đối với mình đâu. Có thể một số nhìn mình qua một thái độ tiêu cực vào một ngày nào đó, thế nhưng phải hiểu rằng nguyên nhân chính là do mình gây ra.

229

Trong gia đình cũng như nơi học đường, nếu các đứa trẻ được giáo dục trong khung cảnh đầm ấm thì khi lớn lên, tiếp xúc với xã hội, thì chúng cũng sẽ có đủ khả năng để giúp đỡ kẻ khác. Khi tiếp xúc với một người nào đó, dù là lần đầu tiên, thì chúng cũng sẽ cảm thấy thoải mái, không rụt rè khi mở lời với người ấy. Chúng sẽ biết cách tạo ra một bầu không khí tươi mát. Trong khung cảnh đó không mấy khi cảm tính cô đơn có thể hiện ra được.

Bures-Sur-Yvette, 15.02.2019
Hoang Phong chuyển ngữ

 

Xem tiếp phần 4.c

Trở về đầu sách (Phần 1)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.