Lịch sử Gia Đình Phật Tử Việt Nam

  TÓM LƯỢC LỊCH SỬ
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

oOo

I. Bối cảnh:

Gia Đình Phật Tử Việt Nam được khai sinh trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt:

– Về phương diện chính trị, thế chiến thứ hai sắp bùng nổ, sự tranh chấp giữa Khối Trục và Đồng Minh, mà bản chất là tranh giành thuộc địa, đặt các dân tộc nhược tiểu trước một cơ hội để buộc phải vùng dậy, chọn lựa chỗ đứng của mình. Việt Nam đang bị sự đô hộ của thực dân Pháp. Phong trào kháng chiến giành độc lập cho tổ quốc bằng quân sự chấm dứt sau cuộc khởi nghĩa thất bại tại Yên Bái năm 1930.

– Về phương diện văn hóa, sự phát triển của văn minh vật chất, sự xâm lăng của các cường quốc kỹ nghệ đã làm đảo lộn giá trị nhân bản cổ truyền của các dân tộc, nhất là các dân tộc Đông phương. Văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt bị đe dọa bứng mất gốc bởi nền văn minh vật chất của Tây phương truyền sang, được một số người vong bản, mất gốc phụ họa, đẩy Việt Nam đi vào con đường nô lệ, đồng hóa ngoại bang.

– Về phương diện Phật Giáo, do ảnh hưởng phong trào “Chấn Hưng Phật Giáo” tại Trung Hoa do Thái Hư Đại Sư đề xướng, các Hội Phật Giáo, Hội Phật Học được thành lập khắp cả ba miền với mục tiêu xiển dương đạo Phật, nhưng đồng thời khơi dậy tinh thần duy tân dân tộc và khôi phục nền văn hóa dân tộc trước nguy cơ diệt vong của đất nước:

  • Tại Nam Kỳ, năm 1931 thành lập Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học HộiLưỡng Xuyên Phật Học Hội (về sau đổi tên là Hội Phật Học Nam Việt).
  • Tại Trung Kỳ, năm 1932 thành lập An Nam Phật Học Hội.
  • Tại Bắc Kỳ, năm 1934 thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội (về sau đổi tên là Hội Việt Nam Phật Giáo, rồi Hội Phật Giáo Bắc Kỳ) [Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội – Nghị định số 4283 ngày 6 tháng 11 năm 1934 của nhà cầm quyền Pháp – NQM chú thích].

Trong điều kiện và bối cảnh bế tắc chung của đất nước như nói trên, sự ra đời của các tổ chức thanh niên trong Phật Giáo (tiền thân của Gia Đình Phật Tử sau này) như là những phản ứng văn hóa nhằm bảo vệ nếp sống cổ truyền của dân tộc Việt và sự bảo tồn tinh thần Phật Giáo trước làn sóng ngoại lai xâm lấn dữ dội.

Công cuộc chấn hưng, canh tân Phật Giáo Việt Nam không chỉ về tổ chức quản trị, giới luật tu trì của Tăng sỹ mà còn có sự tham dự hộ pháp của Cư sỹ tại gia, đồng thời đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ. Từ đó bắt đầu xúc tiến hình thành Ban Đồng Ấu Phật Giáo để quy tụ thanh, thiếu, đồng niên đến chùa học Phật Pháp, tụng kinh, nghe giảng giáo lý, vui hát, rước lễ, dâng hoa…

Tổ chức Đồng Ấu Phật Giáo bắt đầu hình thành tại Huế và Hà Nội, về sau phát triển tới các tỉnh. Phong trào Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam, cũng như phôi thai hình thành Ban Đồng Ấu đang trên đà phát triển với cường độ thuận lợi đầy khả quan, nhưng chưa được bao lâu thì bị gián đoạn trước biến cố lịch sử và chiến tranh chống Pháp bùng nổ tại Nam Kỳ (1945), Bắc và Trung Kỳ (1946).

Đến năm 1948, Tăng-già và Cư sỹ tại ba miền, cũng như quần chúng Phật Tử tiếp nối công cuộc chấn hưng và hoằng pháp; và đã phục hồi tổ chức Đồng Ấu trước đây với danh xưng “Gia Đình Phật Hóa Phổ“.

Tháng 5 năm 1951, Gia Đình Phật Hóa Phổ hoán cải danh xưng thành “Gia Đình Phật Tử” với sự canh tân về cơ cấu tổ chức, điều hành và các hình thức sinh hoạt.

Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh, một thành viên khởi đầu Ban Đồng Ấu tại Huế và là Huynh Trưởng hình thành tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt thuộc Hội Phật Học Nam Việt, trong cuốn Thử Tìm Hiểu Nguồn Gốc Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã minh chứng rằng Ban Đồng Ấu là tiền thân của Gia Đình Phật Tử ngày nay.

Cũng vào năm 1951, Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam Toàn Quốc họp tại chùa Từ Đàm, Huế từ ngày 6 đến ngày 10/5/1951để thảo luận về tương lai đạo pháp. Đại Hội gồm 51 Đại biểu Tăng-già và Cư sỹ của 6 Tập đoàn Phật Giáo của ba miền (tức 3 Kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ; hoặc 3 Phần: Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần) gồm:

  • Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt.
  • Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt.
  • Giáo Hội Tăng Già Trung Việt.
  • Hội Việt Nam Phật Học Trung Việt.
  • Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
  • Hội Phật Học Nam Việt.

Đại Hội đã quyết nghị thống nhất Phật Giáo Việt Nam với danh hiệu “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” và suy tôn Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Ứng ngôi vị Pháp Chủ; tôn thỉnh Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị Hội Chủ. Đồng thời Đại Hội cũng quyết nghị lấy lá cờ Phật Giáo Thế Giới(*) làm Giáo kỳ Phật Giáo Việt Nam; lấy bản nhạc “Phật Giáo Việt Nam” (do Nhạc sĩ Lê Cao Phan, Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam sáng tác) làm nhạc lễ (Giáo ca) chính thức của Phật Giáo Việt Nam.

(*) [Đạo kỳ Phật Giáo Thế Giới được Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần thứ nhất tổ chức từ 25/5/1950 đến 8/6/1950 tại thủ đô Colombo, Sri Lanka (Tích Lan) công nhận là cờ Phật Giáo Thế Giới (nguyên là cờ Phật Giáo Tích Lan từ năm 1889. Tác giả phác thảo lá cờ là nguyên đại tá Hải Quân Hoa Kỳ Henry Steel Olcott, sinh ngày 2/8/1832 tại New Jersey, Hoa Kỳ; qua đời ngày 17/2/1907 tại Adgar, Ấn Độ) – NQM chú thích].

Sau cuộc vận động bình đẳng tôn giáo, tự do tín ngưỡng của Pháp Nạn 1963 thành công. Năm 1964 Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc họp tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn, quyết nghị thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bởi một Hiến Chương quy định giáo chế và cơ cấu tổ chức hành chánh, quản trị của Giáo Hội.

II. Thời kỳ sơ khai (1938-1945):

a) Tại Trung Kỳ

Hoàn cảnh đất nước, từ khi Nguyễn Hoàng đặt đô thành tại Phú Xuân – Huế cho đến lúc vua Gia Long lên ngôi (1802) thì Huế – Thừa Thiên trở thành Kinh đô nước Việt Nam. Những tinh hoa văn hóa, lịch sử, phong tục, tín ngưỡng tôn giáo được hội tụ tại Thuận Hóa (Huế). Cùng với lòng sùng kính của các nhà đương quyền và quần chúng Phật Tử, Phật Giáo đã thiết lập được những ngôi chùa tráng lệ và được sắc phong “Quốc Tự” (chùa Quốc Ân, chùa Thuyền Tôn, chùa Thiên Mụ, Bảo Quốc, Diệu Đế), những đạo tràng thanh tịnh đào tạo Tăng giới xuất hiện nhiều bậc tôn túc tài cao, đức trọng truyền thừa chánh pháp.

Do đó, những thập niên sau này (1960) trở đi, Huế được tán dương là “cái nôi Phật Giáo”, biểu trưng qua các thời kỳ chấn hưng, canh tân và công cuộc vận động bình đẳng tôn giáo của Pháp Nạn năm 1963.

Vào khoảng năm 1938 (…), tại Huế, Ban Quản Trị Hội An Nam Phật Học (gồm Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Tôn Thất Tùng) nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành tổ chức “Ban Đồng Ấu Phật Giáo” tại chùa Từ Đàm (Cụ Bửu Bác trực tiếp phụ trách). Bước đầu hình thành, các Đồng Ấu được chọn trong thành phần con em Đạo hữu thuộc giới trí thức, dòng dõi thế tộc làm nòng cốt tổ chức. Hướng dẫn trong việc phát triển về sau tại các địa phương gồm có:

  • Các bà Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân (con ông Ngũ đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân).
  • Các bà Mân Chị, Mân Em và ông Lê Đình Luân (con của Bác sĩ Lê Đình Thám).
  • Các ông Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông (con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để), Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện v.v…

Song hành với việc hình thành Ban Đồng Ấu, Ban Quản Trị thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục thuộc thành phần thanh niên trí thức đã vào đời với địa vị ngoài xã hội, hoặc đang là sinh viên Cao đẳng, để nghe giảng luận và nghiên cứu Phật học. Ban Quản Trị gồm có: Đinh Văn Nam (sau này là Hòa Thượng Thích Minh Châu), Võ Đình Cường, Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng v.v…

Tổ chức “Đồng Ấu” lúc bấy giờ, cơ cấu điều hành, hình thức sinh hoạt chưa có hệ thống, quy củ và phát triển có tính cách địa phương, nên ít có dịp sinh hoạt chung để được gặp gỡ, liên hệ, hiểu biết nhau, ngoài trừ Họp Bạn (1942?) tại đồi thông Quảng Tế ở Nam Giao (dịp này có sự thăm viếng của phái đoàn Ban Quản Trị Hội An Nam Phật Học do Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn), lần thứ hai tại chùa Túy Vân thuộc vùng cửa biển Tư Hiền và lần thứ ba là Trại Họp Bạn tại Lăng Cô.

Nội dung tại các dịp sinh hoạt là học kinh, tụng niệm, rước lễ, dâng hoa trong các ngày đại lễ Phật Giáo; vui chơi, tập hát theo nhạc điệu cổ xưa (Kim tiền; Đăng đàn cung) và một số bài hát theo nhạc điệu Tây phương. Trang phục thì áo dài đen (nữ màu trắng), quần dài trắng học trò, về sau (1943?) mới bắt đầu có đồng phục áo chemise màu đà (nâu) ngắn tay, túi có nắp, quần đùi (soọt/short) đen dây lưng thun, mũ casque trắng hoặc nón lá (nhất là khi đi trại), nhưng chưa đồng bộ. Các dịp đại lễ, hay hành lễ các ngày vía Phật đều được mang thêm một băng vải màu vàng, từ vai tay trái qua trước ngực chạy xéo xuống tà áo bên phải với dòng chữ màu đỏ “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.

Hệ thống điều hành lúc bấy giờ gồm:

  • Ban Phụ Trách Đồng Ấu Phật Giáo trực thuộc Ban Quản Trị Hội An Nam Phật Học.
  • Tại địa phương là Ban Đồng Ấu, do Khuôn Hội Phật Học cử một thành viên đứng tuổi, uy tín, năng động và có trình độ văn hóa liên lạc với Ban Phụ Trách Vùng (thành viên Ban Phụ Trách Đồng Ấu) để tiếp nhận các cách thức thành lập Ban Đồng Ấu Khuôn Hội.

Ban Đồng Ấu phân chia thành các Đội, Chúng. Thời này việc chiêu mộ Đoàn Sinh rất khó khăn, phần lớn là phái nam, nữ rất hiếm, ngoại trừ tại Huế và vùng phụ cận (Kim Long, Long Thọ, Vĩ Dạ, An Cựu…).

Lúc sơ khai này đã lấy hoa sen 8 cánh (lúc bấy giờ không rõ tác giả thiết kế, cũng như minh định ý nghĩa)(*) làm biểu tượng chung cho từng Đội, Chúng của Ban Đồng Ấu với màu sắc khác nhau như:

  • Đội Sen Xanh, Chúng Sen Vàng…
  • Đội Sen Hồng, Chúng Sen Trắng…

8 màu sắc đó là: Vàng, Trắng, Hồng, Xanh, Nâu, Lam, Cam, Đỏ.

Đây là mốc hình thành đầu tiên tiêu biểu cho truyền thống huy hiệu “Hoa Sen”, và bài “Trầm Hương Đốt” (nhạc lễ cúng dường chư Phật do Bửu Bác sáng tác) ngày nay của Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Thời kỳ phục hồi với danh hiệu “Gia Đình Phật Hóa Phổ”, huy hiệu Hoa Sen được chuyển thành biểu tượng truyền thống chung của tổ chức thay vì trước đây chỉ hạn hẹp trong Đội, Chúng… và bản nhạc “Sen Trắng” được chọn làm Đoàn Ca chính thức của Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

(*) [Thật ra tác giả huy hiệu Hoa Sen (và cả bài ca Dây Thân Ái nữa) là Lê Lừng, một Huynh Trưởng đã đóng góp nhiều công sức với Cư sỹ Lê Đình Thám trong phong trào sơ khai tổ chức và phát triển Gia Đình Phật Hóa Phổ. Huy hiệu hoa sen được thiết kế và sử dụng khoảng năm 1939-1940. Sau khi Gia Đình Phật Hóa Phổ chính thức sử dụng, huy hiệu này cũng được Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục dùng nhưng thêm mấy chữ viết tắt PHÐD phía trên hoa sen – Vì chưa có tài liệu giáo khoa chính thức nào của cấp Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN đưa thông tin này vào nên chúng tôi không dám tùy tiện ghi vào phần lịch sử – NQM chú thích].
Mời xem thêm: Ai là tác giả huy hiệu Hoa Sen Trắng và bài ca Dây Thân Ái?

Ngoài việc học kinh nghĩa, nghi thức tụng niệm, sinh hoạt linh động về trí năng, kèm theo là làm việc thiện để phân giải cho các em thấu hiểu trong hành xử lòng từ bi, vị tha… Trong những dịp đi cắm trại, ngoài những sinh hoạt thường lệ, còn có mục làm việc thiện, như truyền bá vệ sinh, quét dọn những khu ô uế, rác rưởi, khơi mương rãnh, quy tụ các em nhỏ địa phương cùng vui hát, dự lửa trại. Thời kỳ này, các hình thức phô diễn như phù hiệu, cấp hiệu hay danh xưng các cấp điều khiển chưa có đặt ra. Vị đứng đầu Ban Đồng Ấu gọi là “Anh Phụ Trách”, nếu luống tuổi thì “Bác Phụ Trách”, chưa có danh từ “Huynh trưởng, Gia trưởng”.

Năm 1945, mọi sinh hoạt đều gián đoạn vì cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ.

b) Tại Bắc Kỳ

Tại Bắc Kỳ, Hội Phật Giáo Bắc Kỳ đã được thành lập (1934) với trụ sở tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), do Cư sỹ Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng và Hòa Thượng Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ.

Tháng 5 năm 1945 danh hiệu được cải đổi là Hội Việt Nam Phật Giáo do Hòa Thượng Tuệ Tạng (Tổ Cồn) làm Hội trưởng, trong khi nhị vị Tố Liên và Trí Hải được ủy nhiệm điều hành thường trực công việc.

Từ khi thành lập, ngoài việc kết hợp sơn môn, tu đính giới luật Tăng sự, thiết lập Đạo tràng, Phật Học Đường tại các Tổ đình để đào tạo Tăng chúng. Đồng thời các Thượng Tọa cùng một số Cư sỹ trong Ban Quản Trị đã thực hiện việc quy tụ thanh, thiếu, đồng niên, con em hội viên để hình thành Ban Đồng Ấu, hàng tuần chiều thứ Năm và sáng Chủ Nhật đến chùa học kinh nghĩa; rước lễ, dâng hoa các ngày đại lễ; tụng niệm; sinh hoạt vui chơi; tập hát các bài hát theo điệu nhạc truyền thống dân tộc do Cư sỹ Thiều Chửu (tác giả cuốn Hán-Việt Tự Điển) hướng dẫn. Đó là thời kỳ sơ khai hình thành Ban Đồng Ấu Phật Giáo tại Bắc Kỳ.

Năm 1946, cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, Hội cũng như tổ chức Đồng Ấu gián đoạn sinh hoạt.

III. Thời kỳ phục hồi và cải cách (1948-1953):

a) Tại Trung Việt

Năm 1948, sau những ngày tản cư và hồi cư, do khuyến khích của các giáo phẩm Tăng-già tại các quốc tự và các Cư sỹ thành viên Ban Quản Trị Hội An Nam Phật Học tại Huế trong việc phục hồi tổ chức Đồng Ấu, từ đó đã có cuộc gặp gỡ đầu tiên (1948-1949?) của một số anh chị đầy đạo tâm, từng suy tư về giáo dục trẻ, đã từng tham dự từ khởi đầu hình thành tổ chức Ban Đồng Ấu cũng như Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, tại biệt thự số 11 đường Nguyễn Hoàng (thời trước Rue Paul Bert). Những cuộc gặp gỡ bàn luận về sau tại chùa Từ Đàm do Võ Đình Cường đảm trách cùng với Lê Cao Phan, Hoàng Thị Kim Cúc, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu, v.v…

Sau thời kỳ gặp gỡ hội bàn và hoạch định các hình thức sinh hoạt, phục hồi tổ chức với đường hướng cải cách nội dung cũng như hình thức, đồng thời lấy danh hiệu là “Gia Đình Phật Hóa Phổ” thay danh xưng “Đồng Ấu Phật Giáo” của thời kỳ sơ khai trước đây, dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của các Thầy:

  • Thích Minh Châu (sau này là Hòa Thượng Minh Châu).
  • Thích Thiên Ân (viên tịch tại Hoa Kỳ).
  • Thích Đức Tâm, Thích Chân Trí.
  • Thích Trí Không v.v…

Từ đây đã thành lập hai đơn vị đầu tiên là Gia Đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện do Phan Cảnh Trí làm Gia trưởng và Gia Đình Phật Hóa Phổ Gia Thiện do Nguyễn Văn Phiên làm Gia trưởng, và tổ chức bắt đầu sự cải cách cơ cấu điều hành, chương trình tu học, các hình thức sinh hoạt như:

  • Đồng phục, phù hiệu, cấp hiệu.
  • Chia hai ngành Nam, Nữ.
  • Chia đơn vị Đội, Chúng, Đoàn, Gia Đình.
  • Tổ chức trại huấn luyện cho Đoàn Viên và Huynh Trưởng.

Sau đó, tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ ngày càng phát triển sâu rộng khắp các chùa và Khuôn Hội tại Huế, tới nông thôn, rồi Đà Nẵng, Đà Lạt, Quảng Trị, Quảng Bình, Nha Trang, Phan Thiết… và thiết lập các trại huấn luyện Ngành các cấp và Huynh Trưởng, bầu cử Ban Hướng Dẫn cấp địa phương và Trung Việt.

Năm 1949, Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên – Huế được thành lập với thành phần:

  • Trưởng Ban: Lê Cao Phan.
  • Các Thành Viên: Tráng Thông, Võ Đình Cường, Phan Xuân Sanh, Lê Văn Dũng, v.v…

Các năm tiếp theo, tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ tại Trung Việt đã phát triển khắp các tỉnh (như nêu trên) từ thành thị đến huyện, xã với đội ngũ Huynh Trưởng được đào tạo qua các trại huấn luyện A Dục.

Trước sự phát triển rộng khắp ấy, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chung, nên Gia Đình Phật Hóa Phổ đã triệu tập cuộc họp tại trụ sở Hội Phật Học Trung Việt (đường Nguyễn Hoàng, Huế) bầu Ban Hướng Dẫn Trung Việt Gia Đình Phật Hóa Phổ (1951) gồm:

  • Trưởng Ban: Võ Đình Cường
  • Các Thành Viên: Lê Cao Phan, Lê Mộng Đào, Phan Cảnh Tuân, Nguyễn Xuân Quyền, Hoàng Thị Kim Cúc, v.v…

Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo 3 miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế, lấy danh hiệu “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam”. Trong dịp này, khóa huấn luyện Huynh Trưởng đầu tiên do Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên – Huế được ủy nhiệm đảm trách tổ chức, với sự tham dự của Huynh Trưởng ba miền, lấy tên “Trại Kim Cang”, và thành phần tham dự trại gồm:

  • Ban Trại Trưởng: Võ Đình Cường, Lê Cao Phan, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, v.v…
  • Thành phần Trại Sinh:

– Bắc Việt: Lê Vinh, Đặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp, v.v…
– Nam Việt: Nguyễn Hữu Huỳnh.
– Trung Việt: Đa số…

Đến năm 1954, Gia Đình Phật Tử tại Thừa Thiên – Huế và số lớn các tỉnh ở Trung Việt và Cao Nguyên đã tiến triển khả quan, với cơ cấu tổ chức quy củ, các kỹ năng sinh hoạt và tu học hoàn chỉnh, cũng như một lực lượng Huynh Trưởng đông, đầy đạo tâm và khả năng.

Từ đó, trở nên khuôn mẫu trong việc canh tân và phát triển, hướng đến thống nhất toàn diện tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam (tại miền Nam Việt Nam) sau ngày đất nước bị qua phân hai miền Nam, Bắc.

b) Tại Bắc Việt

Năm 1946 cuộc chiến tranh Đông Dương (Việt Nam gọi là cuộc chiến tranh kháng Pháp) bùng nổ, mọi hoạt động của Hội Việt Nam Phật Giáo bị gián đoạn.

Năm 1947, Hội phục hồi hoạt động, Cư sỹ Bùi Thiện Cơ được bầu làm Hội trưởng, Thượng Tọa Thích Tố Liên làm Phó hội trưởng Ban Quản Trị. Thượng Tọa thành lập tại chùa Quán Sứ một Nhi Viện nuôi dưỡng khoảng 200 trẻ em mồ côi, và mở Trường Tiểu Học Khuông Việt.

Do có sự quan tâm đặc biệt trong giáo dục đối với tuổi thiếu sinh, Thượng Tọa kết tập các em mồ côi với học sinh Khuông Việt cùng các Đồng Ấu thành đoàn ngũ lấy danh xưng là “Gia Đình Phật Hóa Phổ”, ủy nhiệm Đặng Văn Khuê xây dựng, trông nom Gia Đình Phật Hóa Phổ sơ khởi này.

Vào khoảng năm 1949-1950 Gia Đình Phật Hóa Phổ lớn mạnh, đã phân chia thành Đoàn, Đội, Chúng và chia thành hai ngành Nam, Nữ do các Huynh Trưởng phụ trách. Đồng thời thành lập đơn vị Gia Đình Phật Hóa Phổ Minh Tâm là đơn vị đầu tiên tại chùa Quán Sứ dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của Đại Đức Thích Thanh Kiểm (nay là Cố Hòa Thượng) và Đại Đức Thích Tâm Giác (nay là Cố Hòa Thượng), với thành phần Huynh Trưởng gồm có:

  • Gia Trưởng: Đạo hữu Viên Quang.
  • Liên Đoàn Trưởng: Lê Vinh.
  • Ủy Viên: Trần Thanh Hiệp.
  • Đoàn Trưởng Thiếu Nam: Đặng Văn Khuê.
  • Đoàn Trưởng Thiếu Nữ: Tuệ Mai.
  • Đoàn Trưởng Đồng Nam: Đỗ Văn Tuyển.
  • Đoàn Trưởng Đồng Nữ: Trần Thị Ngọ.

Tiếp đó thành lập các Gia Đình Liên Hoa, Minh Đạo, Từ Quang, Phả Quang và phát triển rộng lớn đến Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Vĩnh Yên v.v…

Tháng 5 năm 1951, Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ba miền họp tại chùa Từ Đàm, Huế, đã quyết nghị thống nhất Phật Giáo với danh hiệu Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

Song hành với dịp Đại Hội này, trại huấn luyện Kim Cang được tổ chức nhân các Huynh Trưởng cấp tỉnh trở lên của ba miền về dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo, đã hội thảo tiến tới thống nhất hình thức tổ chức, sinh hoạt đoàn thể Phật Tử (Gia Đình Phật Hóa Phổ). Phái đoàn Huynh Trưởng Bắc Việt được cử về dự gồm có các Trưởng: Tâm Thiết – Trần Thái Hồ (Lê Vinh), Thông Phương – Đặng Văn Khuê và Chân Quang – Trần Thanh Hiệp.

Qua các cuộc hội thảo và trại huấn luyện Kim Cang, danh xưng “Gia Đình Phật Hóa Phổ” được cải đổi thành danh xưng Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Sau đó nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, canh tân và hướng dẫn, Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt để điều hành các đơn vị của Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt với các thành phần như sau:

  • Trưởng Ban: Nguyễn Văn Nhã.
  • Phó Trưởng Ban: Lê Vinh, Tuệ Mai.
  • Ủy Viên: Trần Thanh Hiệp, Lê Văn Lãm, chị Ni v.v…

Tháng 1 năm 1953, phái đoàn đại biểu Gia Đình Phật Tử Bắc Việt gồm có Nguyễn Văn Nhã, Lê Văn Lãm, Chị Ni, Tuệ Mai, Diệu Minh và Ty được cử vào dự Đại Hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc họp tại chùa Từ Đàm, hội thảo các dự án thành lập Nội Quy, chương trình tu học và sinh hoạt thống nhất.

Gia Đình Phật Tử tại miền Bắc ngày càng phát triển khắp đến Phúc Yên, Hải Dương, Hà Đông, Bắc Giang. Các khóa huấn luyện Huynh Trưởng lưu động được tổ chức tại mỗi tỉnh, hạt.

Năm 1953 Trại Bồ Đề I (huấn luyện Đội, Chúng Trưởng và Đoàn Phó) được tổ chức tại Phúc Yên do Bùi Ngọc Bách làm Trại trưởng. Trong khoảng thời gian này lại được thêm các Trưởng Nguyễn Minh Hiền, Phạm Mạnh Cương từ Huế ra Hà Nội học, đã tăng cường thêm sức cho các hoạt động Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt.

Đầu năm 1954, Trại Họp Bạn Vô Ưu được tổ chức tại chùa Voi Phục (Láng, Hà Nội), quy tụ tất cả các Gia Đình Phật Tử các tỉnh cùng về dự, và do Trưởng Nguyễn Minh Hiền làm Trại trưởng. Đây là trại họp bạn sau cùng đánh dấu sự phát triển và lớn mạnh của tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Bắc Việt, và sau đó nhận lấy sự qua phân hai miền Bắc, Nam bởi Hiệp định Genève.

Dưới thể chế Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc, tổ chức Gia Đình Phật Tử hoàn toàn giải thể. Tính đến nay (2008) ngoài Bắc vẫn không có lấy một đơn vị Gia Đình Phật Tử nào cả.

c) Tại Nam Việt

Hoàn cảnh Nam Việt từ 1947 trở về trước khác với Bắc và Trung Việt, về sau mặc dầu đã có xu hướng và ý định tiến đến hình thành tổ chức Gia Đình Phật Tử, song không đủ nhân sự chuyên trách cũng như thông hiểu hình thức và nội dung tổ chức.

Đến năm 1951, cơ duyên thuận lợi cho công cuộc thống nhất Phật Giáo Việt Nam sau gần 3-4 thế kỷ bị phân ly do chính sách thống trị và ngược đãi của thực dân Pháp. Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ba miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm gồm có 6 tập đoàn Tăng-già và Cư sỹ:

  • Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt.
  • Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt.
  • Giáo Hội Tăng Già Trung Việt.
  • Hội Việt Nam Phật Học Trung Việt.
  • Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
  • Hội Phật Học Nam Việt.

Phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt do Đại Đức Thích Quảng Minh – Hội trưởng, làm Trưởng phái đoàn và các thành viên gồm có:

  • Đạo hữu Chánh Trí – Mai Thọ Truyền, Tổng Thư Ký Hội Phật Học Nam Việt
  • Đạo hữu Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh, Phó Tổng Thư Ký Hội Phật Học Nam Việt.
  • Đạo hữu Trần Khoan Hậu.

Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh về dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam với tư cách thành viên Phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt. Song Ban Trại Trưởng trại huấn luyện Kim Cang dò biết vị Đại biểu trẻ nhất Phái đoàn Nam Việt có phong độ năng động, linh hoạt, hầu như đã từng trải về sinh hoạt thanh niên, và chính là một đồng hương Huế, đang là một Trưởng Hướng Đạo tại Sài Gòn, nên đã tìm cách vận động, thúc đẩy tham gia Trại Kim Cang, để tiến tới hình thành tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt (tại khóa tu học Anoma của Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm năm 1993, Trưởng Hồng Liên – Phan Cảnh Tuân, giảng viên, cho biết hồi đó Trưởng phải chạy từng bộ đồng phục lam cho Trưởng Huỳnh để dự khóa huấn luyện).

Vốn sẵn dòng máu truyền thống Phật Giáo và đã đến với Ban Đồng Ấu thuộc Hội An Nam Phật Học từ ngày đầu thành lập (1938) và vào sinh sống ở Sài Gòn hạ niên 1940, Trưởng Pháp Huệ chấp nhận dự trại huấn luyện.

Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo bế mạc, và khóa huấn luyện Kim Cang kết thúc, Trưởng Huỳnh trở về Nam Việt với nỗi lòng hân hoan đấy phấn khởi: Sự thống nhất Phật Giáo và tổ chức Gia Đình Phật Tử kết chặt “Tình Lam – Con Phật” nhằm canh tân và phát triển Gia Đình Phật Tử khắp ba miền.

Với cảnh trạng ấy, đã đáp ứng được nỗi đam mê, ước vọng của Trưởng Huỳnh trong việc giáo dục thanh, thiếu đồng niên hướng thiện theo tinh thần đạo Phật. Từ đó với bao kiến thức sẵn có, cùng với những tài liệu thu nhập được ở khóa huấn luyện Kim Cang, Trưởng Huỳnh đã dành hết thời gian và trí tuệ, quyết tâm thành lập bằng được tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt.

Trước khi tiến hành thành lập, Trưởng Pháp Huệ nhận thấy trong Ban Quản Trị Hội Phật Học có Bác sỹ Nguyễn Văn Thọ, Phó Hội Trưởng, là người có đủ điều kiện về cơ sở vật chất (nhà cửa, phương tiện) và nhân lực (con cháu đông đúc) làm nhân, tác động hình thành tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Sài Gòn để dần dần lan rộng đến các tỉnh. Trưởng liền tìm đến tiếp xúc với Bác sỹ Thọ trình bày mục đích, ý nghĩa tổ chức Gia Đình Phật Tử đối với đạo, và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên hướng thiện theo tinh thần đạo Phật. Đồng thời trình bày đầy đủ về hình ảnh sinh động, hòa vui cũng như chương trình tu học và sinh hoạt Gia Đình Phật Tử; được Bác sỹ Thọ thông cảm và tâm đắc, khuyến khích đôn đốc Trưởng Huỳnh: “Đạo hữu nên mau tiến hành, Ban Quản trị Hội và tôi luôn ủng hộ”. Bác sỹ liền giao biệt thự số 31 Nguyễn Thông (công xá được cấp theo công vụ), và con cháu trong gia quyến (gồm 28 nhân lực) làm khởi điểm hình thành Gia Đình Phật Tử tại Sài Gòn.

Từ đây một mình Trưởng Pháp Huệ – Nguyễn Hữu Huỳnh đảm trách mọi vai trò, vừa là người Huynh Trưởng hướng dẫn, vừa là một Đoàn Sinh. Từ tổ chức thành đội ngũ, giảng dạy Phật Pháp; tập hát; các trò chơi; các chuyên môn sinh hoạt thanh niên: gút, morse, dấu đi đường; vạch chương trình sinh hoạt định kỳ; cho đến việc chiêu mộ thêm Đoàn Sinh…

Trong vòng thời gian gần ba tháng, các em Đoàn Sinh đã tiếp thu cách thức sinh hoạt, thuộc các bài hát: “Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”, “Trầm Hương Đốt”, “Dây Thân Ái”, “Dòng Anôma”, và đã thuộc kinh cùng nghi thức hành lễ Sám Hối… Trưởng liền tổ chức Lễ Ra Mắt, thành lập Gia Đình Phật Tử Chánh Tâm tại mặt tiền sân thượng tư gia Bác sỹ Chánh Tâm – Nguyễn Văn Thọ. Lễ Ra Mắt đơn vị đầu tiên này trước sự chứng giám của Chư Tăng, và Ban Quản Trị Hội Phật Học gồm có:

  • Thầy Đạt Từ, Thầy Quảng Liên (sau này là Hòa Thượng Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức).
  • Toàn thể thành viên Ban Quản Trị Hội Phật Học Nam Việt.

Chứng kiến lễ ra mắt, Thầy Quảng Liên đã hân hoan khen ngợi và khuyến khích mau chóng cho phát triển tổ chức Gia Đình Phật Tử để hướng dẫn tuổi trẻ đến với Chánh Pháp. Từ đó tổ chức Gia Đình Phật Tử “họ Chánh” lần lượt hình thành tại Sài Gòn và mau chóng lan tới các tỉnh ở Nam Việt.

Vào khoảng năm 1950, Trưởng Nguyễn Văn Thục thành lập Gia Đình Phật Tử Chơn Trí, Sài Gòn, sinh hoạt tại chùa Sùng Đức, Chợ Lớn; sau đó chuyển về chùa Pháp Quang (gần sân vận động Renaul, sau này là sân vận động Thống Nhất), đổi danh xưng là Gia Đình Phật Tử Chánh Giác, thuộc Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.

Năm 1953, Trưởng Tống Hồ Cầm ở Đà Lạt xuống Sài Gòn (Trưởng Huỳnh cho biết 1951, Trưởng là thành viên Phái đoàn Phật Học Nam Việt về dự Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo ba miền tại chùa Từ Đàm, Huế được quen biết Trưởng Tống Hồ Cầm – Phái đoàn Trung Việt, và Đạo hữu Viên Quang – Phái đoàn Bắc Việt, mà cả hai cùng Trưởng Huỳnh đều là thành viên Ban Thư Ký Đoàn của Đại Hội, cũng như đã làm quen tại Khóa huấn luyện Huynh Trưởng đầu tiên của Trại Kim Cang), Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt nhờ Trưởng Tống Hồ Cầm làm trung gian hợp nhất hai Gia Đình Phật Tử Chánh Tâm và Chánh Giác thành Gia Đình Phật Tử Chánh Đạo thuộc Hội Phật Học Nam Việt.

“… Năm 1950 sau cơn ly tán tập hợp lại, tái lập tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ dưới sự hướng dẫn của chú Minh Châu, anh Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, chị Hoàng Thị Kim Cúc…” “… như một đóa sen vươn cánh nở từ khắp đất Thần Kinh. Ban Hướng Dẫn Thừa Thiên được thành lập. Lúc bấy giờ ở Sài Gòn anh Tống Hồ Cầm, Nguyễn Văn Thục tổ chức Gia Đình Phật Tử trực thuộc Hội Phật Học Nam Việt, lúc này còn rất nghèo ở chùa Phước Hòa …” (sách Người Áo Lam, Sứ Mệnh Gia Đình Phật Tử của Lữ Hồ – Nguyễn Minh Hiền, Ủy Viên Tu Thư Ban Hướng Dẫn Trung Ương nhiệm kỳ I, 1964-1966).

Trại Kim Cang 1951, chỉ có Đại biểu Gia Đình Phật Hóa Phổ Trung và Bắc Việt, Nam Việt chưa có Gia Đình Phật Hóa Phổ nên anh Nguyễn Hữu Huỳnh đại biểu Phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt được mời dự Trại huấn luyện Huynh Trưởng như một Đại Biểu Gia Đình Phật Hóa Phổ Nam Việt dự Trại huấn luyện như đã nói ở phần trên.

Đến năm 1958, Hội Phật Học Nam Việt thành lập Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử thuộc Hội Phật Học Nam Việt, chỉ định Trưởng Tống Hồ Cầm Trưởng Ban, Trưởng Nguyễn Văn Thục Phó Trưởng Ban. Ban Hướng Dẫn nầy bổ sung một số Ủy Viên, Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh giữ chức Ủy Viên Hoạt Động Thanh Niên và Xã Hội.

IV. Thời kỳ cải cách theo hướng thống nhất (1953-1964):

a) Tiến trình phát triển và xây dựng:

Qua Đại Hội tháng 5/1951, cùng với Trại Huấn Luyện Kim Cang đầu tiên là cơ duyên mở đầu tinh thần thống nhất, và canh tân cơ cấu tổ chức, điều hành, chương trình tu học và các hình thức sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Việt Nam, thuộc Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

Do đó, đã dẫn đến Đại Hội Gia Đình Phật Tử toàn quốc diễn ra vào tháng 1/1953 tại Huế, gồm có 63 Đại Biểu Huynh Trưởng chính thức của ba miền.

Kết quả Đại Hội đã thành lập Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam, và quyết nghị chấp thuận một Nội Quy và chương trình tu học, cùng hình thức sinh hoạt thống nhất toàn quốc.

Sau Đại Hội 1953, Gia Đình Phật Tử ba miền đã tỏ rõ sự trưởng thành và quy củ từ cơ cấu tổ chức đến điều hành, tu học, sinh hoạt, các hình thức phô diễn, đến việc đào tạo hàng ngũ Huynh Trưởng qua các khóa huấn luyện, làm nền tảng cho sự xây dựng và phát triển trong tương lai, nhằm tiến tới sự thống nhất toàn diện.

Qua năm 1954, Hiệp định Génève phân chia đất nước thành hai miền Nam, Bắc.

b) Gia Đình Phật Tử tại Miền Nam Việt Nam (1955-1975, Trung và Nam Việt, từ Quảng Trị tới Cà Mau)

Đến năm 1955, tổ chức Gia Đình Phật Tử Nam Việt đã hình thành và phát triển khả quan tại Đô thành Sài Gòn – Gia Định và lan rộng tới các tỉnh Biên Hòa, Cần Thơ, Mỹ Tho (Định Tường), Vĩnh Long (Long Xuyên)…

Hiệp định Genève chia đất nước ta thành hai miền Nam, Bắc. Năm 1955, đồng bào miền Bắc thuộc mọi thành phần nói chung, trong đó có đồng bào Phật Giáo và Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật Tử nói riêng, di cư vào định cư tại Sài Gòn – Gia Định và một số tỉnh thuộc Nam Việt và ở Trung Việt.

Từ bấy giờ tổ chức Gia Đình Phật Tử tại Nam Việt có thêm hai hệ thống của hai Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bắc Việt tại Miền Nam:

  • Một, thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt, đặt trụ sở tại chùa Giác Minh, đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ).
  • Hai, thuộc Hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt (tại Miền Nam), đặt trụ sở tại chùa Phước Hòa, đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu).

Trong cảnh đất nước chia cắt Bắc, Nam tạo ra những phức tạp, xáo trộn không tiên liệu được. Bởi vậy, ở thời gian giao thời lúc đầu không tránh khỏi những ngộ nhận và trở ngại trong hoạt động, vì sự điều hành hoạt động và quản trị khác nhau, do thống thuộc mỗi Tập đoàn Phật Giáo, và không được sự chỉ đạo chung bởi một Ban Hướng Dẫn toàn quốc theo tinh thần Đại Hội 1953.

Tuy vậy, vẫn có sự quan hệ “Tình Lam – Con Phật”, và hình thức tổ chức, tu học vẫn theo Nội Quy Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Nhằm tạo hòa khí trước những ngộ nhận, dao động của giao thời và kết liên “Tình Đạo, Tình Lam”, Trưởng Huỳnh đã liên lạc Gia Đình Phật Tử Minh Tâm thuộc Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt) cùng Trưởng Hồng Liên – Phan Cảnh Tuân thành lập Đoàn Huynh Trưởng A Dục. Mục đích của Đoàn nhằm trao đổi kinh nghiệm, bồi bổ kiến thức trong vai trò Huynh Trưởng phụng sự Đạo Pháp, và hòa đồng hoạt động xây dựng Gia Đình Phật Tử Việt Nam phù hợp với hoàn cảnh đương thời.

Vào cuối năm 1960, nhằm kết liên tình Lam, Đoàn Huynh Trưởng A Dục do các Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh, Phan Cảnh Tuân hướng dẫn đã thăm Đà Lạt và giao lưu với Gia Đình Phật Tử địa phương.

Nhờ sự quan hệ thắm thiết “Tình Lam – Con Phật”, dầu sự thống nhất khác nhau, song cùng một lý tưởng phụng sự Đạo Pháp và xây dựng tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Năm 1958, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt ký quyết định thành lập Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử thuộc Hội Phật Học Nam Việt, chỉ định Trưởng Tống Hồ Cầm Trưởng Ban, Trưởng Nguyễn Văn Thục Phó Trưởng Ban. Từ đây, tại Nam Việt có ba Ban Hướng Dẫn:

  • Ban Hướng Dẫn GĐPT Hội Phật Học Nam Việt.
  • Ban Hướng Dẫn GĐPT Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam.
  • Ban Hướng Dẫn GĐPT Hội Việt Nam Phật Giáo.

Cuối năm 1960, sau cuộc họp sơ bộ tại chùa Linh Sơn – Đà Lạt, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Ủy Viên Thanh Niên Phật Tử Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, vào Sài Gòn họp với Đại Đức Ủy Viên Thanh Niên và một số Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Bắc Việt tại chùa Giác Minh. Các phiên họp này nhằm mục đích tìm phương thức đi đến thống nhất sự chỉ đạo các Gia Đình Phật Tử.

Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, đầy tế nhị của Thượng Tọa Ủy Viên Thanh Niên Phật Tử, cùng sự kết hợp tình Lam qua Đoàn Huynh Trưởng A Dục bấy giờ, là một phần nhân tố duyên lành, dẫn đến Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc họp tại chùa Xá Lợi từ ngày 26 đến 28-12-1961, bầu cử Ban Hướng Dẫn toàn quốc (như tinh thần Đại Hội 1953) gồm đủ thành phần đại diện Bắc-Trung-Nam như:

  • Trưởng Ban: Thượng Tọa Thích Thiện Hoa.
  • Phó Ban Ngành Nam: Tống Hồ Cầm.
  • Phó Ban Ngành Nữ: Hoàng Thị Kim Cúc.
  • Tổng Thư Ký: Trần Quang Thuận.
  • Phó Tổng Thư Ký: Cao Chánh Hựu.
  • Thủ Quỹ kiêm Đại Diện Gia Đình Phật Tử Bắc Việt: Đạo Hữu Nguyễn Đức Lợi.

Kể từ đây trở đi, tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết vững chắc với một ý chí xây dựng và củng cố hàng ngũ, phát huy đức tính Bi-Trí-Dũng phụng sự Đạo Pháp. Do đó, đã trở thành một lực lượng kiên cường với trí tuệ trong sáng, góp phần vào công cuộc đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo theo Giáo lệnh của Đức Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo năm 1963.

V. Thời kỳ thống nhất dưới Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:

Năm 1964, sau cuộc vận động tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của Pháp Nạn năm 1963, Đại Hội Phật Giáo họp tại chùa Xá Lợi, gồm sáu tập đoàn Tăng-già và Cư sỹ Bắc-Trung-Nam và Giáo Hội Phật Giáo Nam Tông (Nguyên Thủy), đồng nhất quyết nghị thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với bản văn Hiến Chương (gồm tất cả 11 Phái đoàn Tăng-già và Cư sỹ đồng ký tên) ấn định giáo chế, cơ cấu tổ chức điều hành Giáo Hội gồm 2 viện: Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo (gồm có các Tổng Vụ và các Vụ); đồng thời đặt Gia Đình Phật Tử thuộc Tổng Vụ Thanh Niên, trực nhiệm Gia Đình Phật Tử Vụ – Viện Hóa Đạo.

Chiếu Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tháng 6/1964, Gia Đình Phật Tử đã tiến hành Đại Hội Huynh Trưởng toàn quốc họp tại trường Nữ Trung Học Gia Long (Sài Gòn), bầu cử Ban Hướng Dẫn Trung Ương, quyết nghị Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng và các chương trình tu học, sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử Việt Nam thống nhất.

Từ đây, tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam từ cấp Ban Hướng Dẫn Trung Ương, xuống Ban Đại Diện Gia Đình Phật Tử Miền, đến Ban Hướng Dẫn cấp tỉnh phân định thành 7 Miền (sau đó bổ sung thêm 1 Miền là Huệ Quang):

  • Vạn Hạnh (Bắc Trung Phần).
  • Liễu Quán (Nam Trung Phần).
  • Khuông Việt (Cao Nguyên Trung Phần).
  • Khánh Hòa (Đông Nam Phần).
  • Quảng Đức (Thủ Đô Sài Gòn).
  • Vĩnh Nghiêm (Phật Tử Bắc Việt).
  • Khánh Anh (Hậu Giang Nam Phần).
  • Huệ Quang (Tiền Giang Nam Phần) về sau được bổ sung thêm.

Cấp miền có Ban Đại Diện Gia Đình Phật Tử Miền. Cấp tỉnh có Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Tỉnh. Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm (Đoàn Viên GĐPT miền Bắc vào Nam) và Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức (các đơn vị GĐPT địa dư thủ đô Sài Gòn) ngang cấp Ban Hướng Dẫn Tỉnh (nhưng đồng thời mặc nhiên là cấp Miền). Cấp quận có Ban Đại Diện Gia Đình Phật Tử Quận.

Sau năm 1964, Gia Đình Phật Tử Việt Nam đã cường thịnh về mọi mặt tổ chức, điều hành cùng chương trình tu học, theo đúng mục đích: Học đạo và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên theo tinh thần luân lý đạo Phật, do các bậc Tôn đức Tăng-già và chư vị Cư sỹ uyên bác (Bác sỹ Tâm Minh Lê Đình Thám) tiền bối sáng lập. Cho nên, dù trong cảnh huống nào Gia Đình Phật Tử vẫn giữ đúng truyền thống thuần túy đạo Phật với hạnh nguyện Tự Giác – Giác Tha để phụng sự Đạo Pháp và kết liên Tình Lam – Con Phật.

VI. Thời kỳ sau năm 1975:

Sau hòa bình, những khó khăn kinh tế chồng chất và vô vàn lý do nội, ngoại tại khác đã đẩy đưa không những đồng bào các tỉnh miền Bắc, miền Trung mà cả miền Nam nữa di chuyển xáo trộn vì lý do tìm vùng đất mới định cư lập nghiệp. Nói chung, bắt đầu từ khoảng năm 1980 đặc điểm của Việt Nam rất khác trước là hầu như tỉnh nào cũng có cư dân của các tỉnh khác đến sinh sống.

Giai đoạn khẩn hoang lập nghiệp khổ nhọc ban đầu thực sự đã chiếm toàn bộ thời gian của những di dân trên vùng đất mới. Những giây phút giành cho nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng là vô cùng hãn hữu. Thế nên khi vừa kịp yên ổn nơi trú ngụ và có một mảnh đất con con để canh tác độ nhật, tuy rằng khó khăn còn trùng trùng điệp điệp, thì ngay lập tức những người làm “nghề cầm còi” chợt tiếc nhớ quay quắt một thời sinh hoạt áo lam Gia Đình Phật Tử. Thôi thúc ấy chính là tác nhân khiến họ lao vào cuộc tìm kiếm rải rác trên vùng đất mới những anh chị em đồng sự, đồng hành…

Thế nhưng lúc bấy giờ, sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Việt Nam vô cùng khó khăn do bị công khai cấm đoán. Các anh chị Huynh Trưởng số thì đi vùng “kinh tế mới”; số bị đi “cải tạo”; số khác thì “vượt biên” định cư tại nước ngoài. Nhiều văn phòng, cơ sở của các Ban Hướng Dẫn bị trưng thu, niêm phong sau ngày 30-4-1975; hồ sơ, khí mãnh thì một phần lớn kỳ hiệu, ấn tín, quyết định công nhận chính thức đơn vị và những văn kiện lịch sử không còn do bị tiêu hủy trong cơn binh lửa khắc nghiệt trong chiến nạn…

Để duy trì được sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử – nơi thì bằng hình thức này, nơi thì bằng hình thức khác – hầu hết Huynh Trưởng lãnh đạo từ cấp Trung Ương đến đơn vị, đặc biệt là Huynh Trưởng cấp Ban Hướng Dẫn Tỉnh/Thị, đều bị triệu tập “làm việc”; các sinh hoạt công khai bị ngăn trở, sách nhiễu, khó dễ đủ bề… Tuy vậy với tinh thần trung kiên vì tổ chức, hầu hết các địa phương đều duy trì, phục hoạt được tổ chức với một tinh thần vô úy đáng kinh ngạc. Phải nói Gia Đình Phật Tử Việt Nam là tổ chức sinh hoạt thanh niên duy nhất trong số rất nhiều các tổ chức khác dưới chế độ cũ bị xóa sổ, đã thản nhiên kiên cường tồn tại dưới nhiều áp lực nặng nề cho đến lúc nhà đương cục mới phải mặc nhiên chấp nhận. Không những thế, do những anh chị Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật Tử Việt Nam bôn tẩu khắp Hải Ngoại mà chiếc áo màu Lam, lá cờ Sen Trắng đã hiện diện đến 4/5 Châu lục trên thế giới.

Thế nhưng phát khởi từ giai đoạn này (kể từ 1981) – giai đoạn được công nhận (hay tái công nhận?!) – những khó khăn mới tiếp tục trùng trùng vây bủa; những phương thức triệt tiêu mới bắt đầu chuyển hướng, đè nặng lên Gia Đình Phật Tử. Lần đầu tiên trong lịch sử tổ chức (kể cả trong những thời kỳ Pháp Nạn), Gia Đình Phật Tử Việt Nam bị phân hóa trầm trọng bởi đủ thứ âm mưu cả ngoại tại lẫn nội tại.

Và vì là thông tin lịch sử thế nên chúng ta hãy tạm dừng lại ở đây, ở giai đoạn cận đại. Giai đoạn hiện đại hãy chờ yếu tố thời gian công minh gạn lọc để có sự vô tư khi viết tiếp, vì ai dám khẳng định trang lịch sử bi hùng Gia Đình Phật Tử sẽ không bị xuyên tạc, bóp méo? Khó mà tiên liệu phần sau của sử liệu sẽ được viết tiếp như thế nào, nhưng phần trước – phần đã được tiền nhân và thế hệ Lam Viên Gia Đình Phật Tử chúng ta hiện tại khâm phục và thừa nhận bấy lâu nay – chắc hẳn thế hệ Đoàn Viên Gia Đình Phật Tử mai hậu kế thừa hoàn toàn có thể đọc được những dòng Lam Sử tin cậy, chính xác, chính trực và chính sử…

———=oOo=———

Quảng Mẫn NGUYỄN QUANG MAI
Sưu tập – Tổng hợp – Trình bày
Vũng Tàu – 11.11.2011.

1 thoughts on “Lịch sử Gia Đình Phật Tử Việt Nam

  1. Xin cám ơn bài viết của Quang Mai!

    Gia Đình Phật Tử tỉnh Gia Định hầu hết đều mang họ ĐỨC như: Đức Hoa, Đức Hòa, Đức Chánh, Đức Kiên…
    Trụ sở của GDPT tỉnh Gia Định trong khoảng 1970 – 1975 là chùa Pháp Vân ở Gò Vấp..
    (hàng tuần thì GDPT Đức Hòa sinh hoạt ở chùa Giác Hoa do Hòa thượng Thích Quãng Thạc tụ trì, GDPT Đức Kiên sinh hoạt hàng tuần tại chùa Pháp Vân.

    Thân mến,
    Dulan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.