Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ dài của cụ Nguyễn Đình Chiểu.
Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư, làm tiều, sau đó gặp được Đạo Dẫn, Nhập Môn và Kỳ Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.
Cụ Nguyễn Đình Chiểu sinh trưởng giữa lúc thực dân Pháp đang xâm lược Việt Nam. Năm 1858, chúng đánh hải cảng Đà Nẵng. Năm 1859, đánh Gia Định. Hồi ấy ông đang dạy học ở Gia Định, phải chạy về quê vợ ở Cần Giuộc (gần Chợ Lớn) lánh nạn và tiếp tục dạy học ở đó. Năm 1861, Cần Giuộc cũng bị quân Pháp chiếm, ông lại phải chạy về Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Năm 1862, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, Vua Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông nhượng cho Pháp. Tuy vậy Pháp vẫn tiếp tục mưu đồ xâm lược. Năm 1867, chúng chiếm luôn cả ba tỉnh còn lại của Lục Tỉnh thuộc Nam Kỳ. Vậy là cả Lục Tỉnh Nam Kỳ bị Pháp đô hộ.
Cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng như hầu hết đồng bào miền Nam lúc bấy giờ vô cùng căm phẫn. Ông rất đau xót về tình cảnh đất nước bị chia cắt, nhân dân khổ cực nhiều bề: phần bị giặc tàn sát, đàn áp, bức hiếp, phần bị đói rét, bệnh tật, chết chóc… Ông vì bị mù, không thể cầm vũ khí giết giặc, nên dùng bút thay gươm, viết văn làm thơ để nói lên lòng yêu nước thương dân và nỗi oán hận của mình đối với quân cướp nước và triều đình nhà Nguyễn nhu nhược.
“Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật” ra đời vào khoảng thời gian sau khi Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm. Trong tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã mượn bối cảnh của đất nước U, Yên ở Trung Hoa đời xưa bị ngoại bang xâm chiếm, dựng lên câu chuyện mấy người dân xứ này đi lánh nạn và cũng tìm thầy học thuốc, để dưới hình thức nói chuyện về y học, thổ lộ lòng căm phẫn của mình đối với thời cuộc, nhằm cổ súy tinh thần đấu tranh chống xâm lăng của đồng bào, đồng thời cũng để nói lên sự lưu tâm của mình đối với tính mạng của bệnh nhân trước tình cảnh các dung y vụ lợi, nhằm bổ cứu tình trạng y học đương thời.
B/ Các bản gốc và bản dịch củ của tác phẩm:
1) Ngư Tiều Vấn Đáp Nho Y Diễn Ca: Bản chữ Nôm chép tay của Nam Trung Cư Sĩ Khánh Vânnăm Tân Hợi (1911), gồm 3632 câu thơ lục bát và một số bài thơ, phú… chữ Nôm và chữ Hán chép xen kẽ, ngoài ra còn có 2 bài:
- Sưu tinh dụng dược tâm pháp tự truyện
- Trích yếu âm dương biện luận.
2) Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật: Do Phan Văn Hùm hiệu đính và chú thích, Nhượng Tống tăng bình và bổ chú, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1952, đánh số đến 3644 câu thơ lục bát, tuy nhiên bị sót mất hai câu 1787 và 1788, ngoài ra còn chép nhập bốn chữ đầu của câu 1475 với bốn chữ sau của câu 1476 thành một câu tám chữ sau câu 1474. Bản này cũng có một số bài thơ, phú… chữ Nôm, chữ Hán chép xen kẽ , và 2 bài như trên.
3) Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật Diễn Khúc Ca: Bản chữ Nôm chép tay của Nguyễn Thịnh Đức năm Tân Mão (1951) chỉ có phần đầu gồm 1034 câu thơ lục bát và những bài thơ chữ Nôm và Hán xen kẽ ở phần này.
a. Bối cảnh: Vào khoảng năm 936, đất U, Yên ở Trung Hoa, do Thạch Kính Đường là quan Đô Hộ Sứ của nhà Đường, cai trị. Thạch Kính Đường thông mưu với quân Khiết Đan nước Liêu, cắt đất nhượng cho Khiết Đan, để được Khiết Đan phong cho làm vua xứ này. Dân U, Yên rơi vào tình cảnh lầm than dưới ách đô hộ của ngoại bang và dưới sự áp bức của bè lũ gian nịnh bù nhìn trong nước. Những người có tâm huyết không khuất phục chế độ ấy. Một số phiêu bạt đi nơi khác để sinh sống và tìm cách cứu nước, cứu dân. Trong số người này, có những nhân vật đã đi tìm con đường y học và cùng gặp nhau trên đường đi tìm thầy học thuốc:
– Nhân Sư là người thầy thuốc nổi tiếng ở U, Yên đi lánh, không muốn hợp tác với giặc.
c. Cốt truyện: Vì tình cảnh đất U, Yên bị chia cắt và đặt dưới sự đô hộ của ngoại bang nên Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược đi làm nghề đốn củi, đánh cá mưu sinh. Chẳng may vợ con bị ốm đau nhiều và chết chóc, nên cả hai người đều muốn đi tìm thầy học thuốc. Họ đều có ý định đi tìm Nhân Sư là một thầy thuốc rất giỏi và cũng là người đất U, Yên đi ẩn cư. Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược là hai người bạn cũ, bị hoàn cảnh loạn ly mà xa cách nhau từ lâu, gặp lại nhau trên đường đi tìm Nhân Sư. Dọc đường họ gặp thêm hai bạn cũ có cùng mục đích là Đạo Dẫn và Nhập Môn. Cả mấy người cùng dắt nhau đi tìm Nhân Sư. Đạo Dẫn và Nhập Môn là những người đã biết chỗ ở của Nhân Sư. Vì họ đã đều biết thuốc, nên trên đường đi Ngư, Tiều hỏi chuyện về y học rất nhiều. Đạo Dẫn và Nhập Môn lần lượt trả lời những câu hỏi của Ngư, Tiều và giải thích một cách rõ ràng nhiều điểm về lý luận y học cơ bản, kèm theo ca, phú mà phần chính lấy ở y học nhập môn ra.
Giữa đường, Đạo Dẫn tìm đường đi luyện đan (tu Tiên), còn Ngư, Tiều thì theo Nhập Môn tiếp tục đi đến Đan Kỳ để tìm Nhân Sư, Nhưng khi đến nơi thì Nhân Sư đang bị bệnh và lánh ở Thiên Thai, song họ được gặp lại Đạo Dẫn ở đây. Hỏi ra mới biết là Nhân Sư không phải là bị bệnh thật mà là vì vua Liêu nghe tiếng cho sứ đến mời Nhân Sư vào làm Ngự Y, nhưng Nhân Sư không muốn làm tôi kẻ thù nên đã xông hai mắt cho mù, rồi lánh về ở Thiên Thai và lưu học trò là Đạo Dẫn ở lại Đạo Kỳ để từ chối với sứ Tây Liêu.
Ngư, Tiều không được gặp Nhân Sư và cũng không ở lại để đợi Nhân Sư trở về. Nhưng Nhân Sư đã để lại hai bài dạy phép dùng thuốc (một bài luận về tiêu bản, một bài nói về phép chữa tạp bệnh). Ngư, Tiều lãnh hai bài đó rồi trở về. Sau khi từ biệt Đạo Dẫn và Nhập Môn; Ngư, Tiều dự định sẽ bỏ nghề cũ để đi làm nghề y. Đêm đi lạc đường trong rừng, vào ngủ ở một cái miếu trong hang, nằm mê mộng thấy xử án các thầy thuốc: Thầy châm cứu chữa xằng; Thầy pháp, thầy chùa gieo rắc mê tín dị đoan…
Tỉnh ra Ngư, Tiều mới biết đó là những lời răn, nên khi về nhà, cả hai người đều ra công học thuốc cho thật giỏi, thấu đáo, rồi chuyên mỗi người một khoa. Ngư chữa bệnh nhi khoa, Tiều chữa bệnh phụ khoa. Họ đều trở nên những thầy thuốc lành nghề và chân chính.
oOo
NGƯ TIỀU Y THUẬT VẤN ĐÁP
Nguyễn Đình Chiểu
Ngày nhàn xem truyện “Tam công”,
Thương người hiền sĩ sinh không gặp đời.
Cuộc cờ thúc quý đua bơi,
Mấy thu vật đổi sao dời, than ôi !
Kể từ Thạch Tấn ở ngôi,
U Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan,
Sinh dân nào xiết bùn than,
U Yên trọn cũng giao bàn về Liêu.
Theo trong người kiệt rất nhiều,
Ôm tài giấu tiếng làm tiều, làm ngư.
Nước non theo thói ẩn cư,
Thờ trên nuôi dưới, nên hư mặc trời.
Lại thêm Phật, Lão đua lời,
Nghĩ lòng người với đạo đời thêm thương.
Nhà năm ba gánh cương thường,
Phận ai nấy giữ, trọn giường thời thôi.
Đời vương đời đế xa rồi,
Nay Di mai Hạ biết hồi nào an.
Năm trăm vận ở sông vàng,
Nước còn đương cáu, khôn màng thánh nhân,
Đã cam hai chữ “tỵ Tần”,
Nguồn Đào tìm dấu, non xuân ruỗi miền.
Có tên rằng Mộng Thê Triền,
Tuổi vừa bốn chục, nhân duyên năm lần,
Nhà nghèo ở núi Bạch Vân,
Dẹp văn theo võ, tách thân làm tiều.
Ngày ngày đốn củi rừng Nghiêu,
Hái rau non Thuấn, phận nhiều lao đao.
Đông Xuyên lại có người hào,
Tên rằng Tử Phược, họ Bào, làm ngư.
Trong (thông ?) minh ba chục tuổi dư,
Sinh con mười đứa bé thơ thêm nghèo.
Ngược xuôi trên nước một chèo,
Nay doi mai vịnh, nghề theo lưới chài,
Họ Bào họ Mộng hòa hai,
Trước theo nghề học đều tài bậc trung.
Chẳng may gặp buổi đạo cùng,
Treo kinh dẹp sử, lánh vòng loạn ly.
Người nam kẻ bắc phân đi,
Nước non rẽ bạn cố tri bấy chầy.
Cách nhau mười mấy năm nay,
Tình cờ lại đặng một ngày gặp đây.
Ngư, Tiều mở tiệc vui vầy,
Ngâm thơ, uống rượu, đều bày chí xưa.
Tiều ngâm thơ rằng:
Non xanh mấy cụm đội trời thu,
Sưu thuế Tây Liêu chẳng đến đầu.
Tên đã gác ngoài sân thúc quý,
Minh liền dầm giữa suối Sào, Du.
Vui lòng bạn cũ thơ vài cuốn,
Rảnh việc ngày nay rượu một bầu.
Chút phận riêng nương hơi núi rạng,
Trăm năm ra sức dọn rừng nhu (nho).
Ngư ngâm thơ rằng:
Nghênh ngang trên nước một thuyền câu,
Chèo sóng buồm giong,trải mấy thu.
Ngày xế tấm mui che gió Tấn,
Đêm chầy bếp lửa chói trời U
Mặc tình sở ngộ đời trong đực,
Vui thú phù sinh bến cạn sâu.
Trăm tuổi trọn nhờ duyên cá nước,
Dù lòng ngao ngán giữa dòng nhu (nho).
Tiều rằng: Sinh chẳng gặp thời,
Thân đà đến ấy, nghe thơ thêm phiền.
Lênh chênh chữ phận, chữ duyên,
Lỡ Tiên, lỡ Phật, lỡ nguyền nho phong.
Nhớ câu “quân tử cố cùng”,
Đèn trăng, gió quạt, non sông phận đành.
Ngư rằng: Hai chữ công danh,
Hoàng lương nửa gối, đã đành phôi pha.
Thương câu “thế đạo đồi ba”,
Ngày nay chưa biết mai ra lẽ nào !
Uống thêm vài chén rượu giao,
Ngâm thơ hoài cổ, để rao tiếng đời.
Ngư, Tiều hoài cổ ngâm ngụ ưu đạo ý (Thử xướng, bỉ họa):
Từ thuở Đông Chu xuống đến nay,
Đạo đời rậm rạp mấy ai hay
Hạ Thương đường cũ gai bò lấp,
Văn Vũ nền xưa lúa trổ đầy.
Năm bá mượn vay, nhân nghĩa mọn .
Bảy hùng giành xé, lợi danh bay,
Kinh Lân mong dẹp tôi con loạn,
Sử Mã khôn ngăn mọi rợ bầy.
Dùi mõ Mặc, Dương thêm chộn rộn,
Tiếng chuông Phật, Lão rất vang ngầy.
Lửa Tần, tro Hạng vừa nguôi dấu,
Am Hán, chùa Lương lại réo dầy,
Trong đám cửu lưu đều nói tổ,
Bên đường tam giáo cũng xưng thầy.
Khe Đào, động Lý nhiều đoàn trốn,
Rừng Trúc, đình Lan lắm bạn say.
Phép báu Thi, Thư dòng mực nát,
Màu xuê Lễ, Nhạc nhiễm sương bay,
Mấy dòng biển nghiệt chia nguồn nước,
Trăm cụm rừng hoang bít cội cây.
Hơi chính ngàn năm về cụm núi,
Thói tà bốn biển động vàng mây.
Ngày nào trời đất an ngôi cũ,
Mừng thấy non sông bặt gió tây.
Thơ rồi Ngư mới hỏi Tiều:
Việc nhà con vợ ít nhiều đặng hay?
Tiều rằng: Triền rất chẳng may,
Năm lần cưới vợ, còn nay một người.
Nằm hoài biếng nói, biếng cười,
Rề rề đau máu, da tươi bàu nhàu.
Bốn người trước thác theo nhau,
Người đau sản hậu, người đau thai tiền,
Khiến thêm nghèo khổ cho Triền,
Bán bao nhiêu củi về tiền thuốc thang,
Thầy hay thời ở xa đường,
Tin theo thầy tục, giúp phương hại người.
Ngư rằng: Phược cũng như người,
Hôm mai lận đận về mười đứa con.
Chí lăm nuôi đặng vuông tròn,
Chung tư trập trập, nhà còn phúc ghi.
Nào hay tạo hóa tiểu nhi,
Rủ bầy con nít đều đi bỏ mình.
Đứa thời đau chứng cấp kinh,
Đứa thời cam tích, bụng bình rĩnh ra,
Đứa thời hai mắt quáng gà,
Đứa thời túm miệng, khóc la rốn lồi,
Đứa thời đau bụng lãi chòi,
Đứa thời iả kiết, rặn lòi trôn trê,
Đứa thời sài ghẻ, nóng mê,
Đứa thời hoa trái, độc về hông, vai.
Rủ nhau thỉnh thoảng chết hoài,
Đứa đôi ba tháng, đứa vài ba năm.
Trời đà hao tốn tiền trăm,
Thương con chạy bậy, lầm nhằm thuốc nhăng.
Đến nay còn sót hai thằng,
Nhờ trời khoẻ mạnh, đặng ăn chơi thường.
Cảm ơn kẻ sĩ du phương,
Dắt ta, điềm chỉ vào đường Y Lâm.
Thê Triền nghe nói mừng thầm,
Hỏi rằng: Thầy ở Y Lâm tên gì?
Ngư rằng: Chưa biết tên chi,
Nghe người nói đó là Kỳ Nhân Sư.
Tiều rằng: Chữ gọi Nhân Sư,
Tiên hay là Phật, bậc gì công phu?
Ngư rằng: Vốn thật thầy nhu (nho),
Lòng cưu gấm nhiễu, lại giàu lược thao.
Nói ra vàng đá chẳng xao,
Văn ra dấy phụng, rời giao tưng bừng.
Trong mình đủ chước kinh luân,
Thêm trau đạo đức, mười phân rõ ràng,
Chẳng may gặp thuở nước loàn,
Thương câu “dân mạc” về đàng Y Lâm.
Ẩn mình chôn ngọc, vùi câm (kim),
Người con mắt tục coi lầm biết đâu.
Ta nhân bệnh trẻ đi cầu,
Có nghe du sĩ đọc câu thơ rằng:
Du sĩ độc nhân sư thi:
Xe ngựa lao xao giữa cõi trần,
Biết ai thiện tử, biết ai thần?
Nhạc thiều tiếng dứt khôn trông phụng,
Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân!
Khỏe mắt Hy Di trời ngũ quý,
Mỏi lòng Gia Cát đất tam phân
Công danh chi nữa, ăn rồi ngủ,
Mặc lượng cao dày xử với dân.
Tiều rằng: Mừng gặp hiền nhân,
Nghe bài thơ ấy, thật trân bảo đời!
Bấy lâu những tưởng không người,
Nào hay hang trống còn dời tiếng rân.
Thi danh trước có Đường Thần.
Tài như Lý, Đỗ muôn phần khá thương.
Thấy nay cũng nhóm văn chương,
Vóc dê, da cọp khôn lường thực hư,
Tiếc thay đời có Nhân Sư,
Lại theo bốn chữ “vô như chi hà”.
Nhớ xưa tiếng đại hiền ra,
“Rằng trời muốn trị, bỏ ta, ai dùng?”
Thôi thôi ngươi hãy gắng công,
Đem ta tới chỗ, học cùng Nhân Sư.
Ngư rằng: Nhắm chốn Đan Kỳ,
Éo le khúc nẻo, đường đi chẳng gần.
Nhiều non, nhiều núi, nhiều rừng,
Nhiều đèo, nhiều ải, nhiều chừng động hang.
Chút công khó nhọc chẳng màng,
Phần lo hóc hiểm một đàng Nhân Khu.
Nhân Khu ải ấy ở đầu,
Nẻo lành, nẻo dữ, cạn sâu khôn lường.
Tiều rằng: Ta dốc tìm phương,
Xin phân cho rõ cái đường Nhân Khu.
Ngư rằng: Một ải Nhân Khu,
Lấy da bao thịt, làm bầu hồ lô.
Trở thông chín nẻo ra vào,
Mười hai kinh lạc chia đào dọc ngang.
Ngoài thời sáu phủ Dương Quan,
Trong thời năm tạng, xây bàn Âm Đô.
Hai bên tả hữu vách tô,
Có non nguyên khí, có hồ huyết quan.
Có nơi hồn phách ở an,
Có ngôi thần chủ, sửa sang việc mình.
Rước đưa có đám thất tình,
Có vườn ngũ vị nuôi hình tốt tươi.
Lại nghe du sĩ trao lời,
Rằng trong ải ấy lắm nơi hiểm nghèo,
Có làng Lục Tặc nhóm theo,
Chia phần đón ngách, giữ đèo Tam Thi.
Hôm mai rũ quến nhau đi,
Xui lòng nhân dục, nhiều khi lang loàn,
Hoặc theo bên động Bì Nang,
Thắm trêu hoa mẫu mơ màng gió xuân.
Hoặc theo bên động Tôn Cân,
Nhem thèm cho sãi về dân, bỏ chùa,
Thêm bầy quỉ quái theo lùa,
Nhóm non Thập Ác, tranh đua khuấy đời,
Ngửa xem ngoài cửa sáng giăng,
Thấy trên biển ngạch chữ rằng “Tam Công”.
Bước vô trong miếu lạnh lùng,
Thấy treo ba bức song song họa đồ.
Nhân Sư ngồi giữa xem đồ,
Thấy ta han hỏi, dở hồ linh đan.
Lấy ra thuốc đỏ hai hoàn,
Cho về cứu trẻ khỏi cơn tai nàn.
Ta nhân một thuở vội vàng,
Gặp thầy chưa kịp hỏi han việc gì.
Tiếc thay đã đến Đan Kỳ,
Mùi thơm chưa dính chút chi vào mình.
Tiều rằng: Xin hỏi nhân huynh,
Trước quen du sĩ, tính danh cũng tường?
Ngư rằng: Kẻ sĩ du phương,
Tên Châu Đạo Dẫn, đem đường cho ta.
Đang khi bối rối việc nhà,
Nào rồi hỏi việc trải qua cùng chàng.
Chỉ nghe Đạo Dẫn thở than,
Rằng bầy Lục Tặc, biết toan lẽ nào !
Tiều rằng: Lục Tặc làm sao ?
Xin phân sáu ấy, âm hao cho rành,
Ngư rằng: Tai mắt nhiều tinh,
Tai tham tiếng nhạc, mắt giành sắc xinh.
Mũi thời tham vị hương hinh,
Miệng thời tham béo, ngọt, thanh, rượu, trà,
Vóc thời muốn bận sô sa,
Bụng thời muốn ở cửa nhà thếp son.
Cho hay Lục Tặc ấy còn,
Khiến con người tục lần mòn hư thân.
Tiều rằng: Nghe tiếng ngọc phân,
Chạnh lòng muốn tách cõi trần chơi mây.
Phải chi gặp Đạo Dẫn đây,
Ta xin theo dấu, tìm thầy Nhân Sư.
Ngư rằng: Phược nguyện đem đi,
Anh về sắm sửa lễ nghi sẵn sàng.
Vả nay vừa tiết xuân quang,
Hẹn năm ngày nhóm hành trang cho rồi
Thê Triền từ tạ, chân lui,
Về nhà thấy vợ ngùi ngùi đau rên,
Nhờ ơn nhạc mẫu ở bên,
Dặn dò gửi vợ, lại lên họ Bào.
Thứ này hai họ nghĩa giao,
Sắm đồ hành lý những bao, những hồ.
Bao thời đựng cá tôm khô,
Hồ thời đựng rượu, trường đồ thẳng xông,
Trải qua bờ liễu, non tùng,
Trời hiu hiu thổi gió đông đưa mình,
Mặt nhìn trong tiết Thanh minh,
U Yên đất cũ, cảnh tình trêu ngươi,
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây gie nhánh đón đường,
Như tuồng níu hỏi Đông Hoàng ở đâu ?
Bên non đá cụm cúi đầu,
Như tuồng oan khúc, lạy cầu cứu sinh.
Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kể mách tình hình dân đau.
Gió tre hiu hắt theo sau,
Như tuồng xúi dục đi mau tìm thầy.
Dưới non suối chảy kêu ngầy,
Như tuồng nhắn hỏi sự này bởi ai?
Hai người nhìn thấy than dài,
Cho hay non nước nhiều loài trông xuân,
Mưa sầu gió thảm biết chừng nào thanh!
Mảng xem cảnh cũ thương tình,
Nào hay lạc nẻo lộ trình ải xưa.
Cùng nhau ngơ ngẩn ngày trưa,
Lại may gặp bạn cỡi lừa ngâm thơ.
Hai người dừng gót đứng chờ,
Lắng nghe du sĩ lời thơ ngâm rằng:
Trời đông sùi sụt gió mưa tây,
Đau ốm lòng dân cậy có thầy,
Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,
Mạng nay già trẽ gửi trong tay.
Trận đồ tám quẻ còn non nước,
Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.
Hỡi bạn Y Lâm ai muốn hỏi,
Đò xưa bến cũ có ta đây.
Ngâm rồi thoạt thấy Tiều, Ngư,
Vội vàng Đạo Dẫn trụy lư cười ngầm.
Chào rằng: này kẻ tri âm!
Ngày nay lại đến Y Lâm cầu gì?
Ngư rằng: Đem bạn cố tri,
Đồng lòng tìm đến Nhân Sư học hành.
Dẫn rằng: Hai chữ “phù sinh”
Người non, kẻ nước, phận đành tiều, ngư.
Bấy lâu sao chẳng tầm sư,
Đến nay lại có công dư học nghề?
Tiều rằng: Thời vận bất tề,
Thêm lầm thầy thuốc làm bê việc nhà.
Ngư rằng: Ta nghĩ giận ta,
Bởi thương con vợ mới ra hết tiền.
Dẫn rằng: Trong cõi trần duyên,
Hay người chưa trả rồi tiền nợ vay.
Người xưa ba chuyến gãy tay,
Tức mình học thuốc, mới hay làm thầy,
Tiều rằng: Mấy cụm rừng y,
Đều noi đường cái Hiên Kỳ trổ ra.
Một ngày suối chảy một xa
Rốt dòng lại có chính tà khác nhau.
Ngư rằng: Cách trở bấy lâu,
Đường đi ngày trước lạc đâu khôn tầm.
Dẫn rằng: Đây thật Y Lâm,
Nhân khu ải khỏi, nào lầm chớ e!
Ngư rằng: Dặm cũ vắng hoe,
Mình tuy có thấy, không nghe biết gì.
Dẫn rằng: Đó chớ vội đi,
Ngày nay chưa gặp Tôn Sư ở nhà.
Đến am Bảo Dưỡng theo ta,
Nghỉ chơi vài bữa, rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Đạo Dẫn đi,
Ở am Bảo Dưỡng một khi vui vầy.
Ba người kết bạn đông tây,
Chuyện trò sách thuốc, lối này hỏi nhau.
Ngư rằng: Trước ải Nhân Khu,
Mười hai kinh lạc, cạn sâu chưa tường,
Dẫn rằng: Ba âm, ba dương,
Ba ba số bội, chia đường hai bên,
Tay chân tả hữu hai bên,
Âm dương đều sáu, dưới trên buộc ràng.
Thập nhị kinh lạc ca (Bài ca về 12 kinh lạc):
Kinh Thủ,Thái Dương thông với ruột non,
Kinh Túc, Thái Dương thông với bọng đái,
Kinh Thủ, Dương Minh thông với ruột già,
Kinh Túc, Dương Minh thông với dạ dày,
Kinh Thủ, Thiếu Dương thông với tam tiêu,
Kinh Túc, Thiếu Dương thông với mật,
Kinh Thủ, Thái Âm thông với phổi,
Kinh Túc, Thái Âm thông với lá lách,
Kinh Thủ, Thiếu Âm thông với trái tim,
Kinh Túc, Thiếu Âm thông với thận,
Kinh Thủ, Quyết Âm thông với màng tim,
Kinh Túc, Quyết Âm thông với gan.
Hựu hữu ca (Lại có bài ca rằng):
Kinh Thái Dương thuộc Thủy, ứng với Thìn,Tuất, thông với ruột non, bọng đái,
Kinh Dương Minh thuộc Kim, ứng với Mão, Dậu, thông với ruột già, dạ dày,
Kinh Thiếu Dương thuộc Hỏa, ứng với Dần, Thân, thông với tam tiêu và mật,
Kinh Thái Âm thuộc Thổ, ứng với Sửu, Mùi, thông với phổi và lá lách,
Kinh Thiếu Âm thuộc Hỏa, ứng với Tý, Ngọ, thông với tim và thận,
Kinh Quyết Âm thuộc Mộc, ứng với Tỵ, Hợi, thông với màng tim và gan.
Ngư rằng: Kinh lạc là tiêu,
Chỗ nào khí huyết ít nhiều biết đâu.
Dẫn rằng: Khí huyết nhân khu,
Ta từng coi sách, thấy câu ca rằng:
Thập nhị kinh lạc khí huyết đa thiểu ca (Bài ca về khí huyết nhiều ít của mười hai kinh lạc):
Nhiều khí, nhiều huyết, anh nên nhớ:
Kinh Thủ Dương Minh tức ruột già, và
Kinh Túc Dương Minh tức dạ dày.
Ít huyết, nhiều khi, có sáu kinh:
Tam tiêu, mật, thận, tim, lá lách, và phổi.
Nhiều huyết, ít khí chia ra bốn kinh:
Bọng đái, ruột non, màng, tim và gan.
Ngư rằng: Kinh lạc nhiều đàng,
Người đau nhiều chứng, biết toan lẽ nào ?
Dẫn rằng: Chớ hỏi thầy cao,
Bệnh nào thuốc nấy đem vào đường kinh.
Tiều rằng: Xin hỏi tiên sinh,
Lệ trong năm tạng, ghi hình trạng sao?
Dẫn rằng: Tổ có lời rao:
Tạng Can thuộc Mộc, cây rào mùa xuân.
Sắc xanh, con mắt là chừng,
Hoa ra giáp móng, dày gân buộc lèo.
Giấu hồn, đựng máu, tiếng kêu,
Vị Toan, nước mắt, mạch nêu chữ Huyền.
Quyết Âm kinh túc ấy truyền,
Hợp cùng phủ đảm, ngôi liền ngoài trong.
Tạng Tâm thuộc Hoả, mạch hồng,
Mùa hè, sắc đỏ, chừng trong lưỡi này.
Giấu thần, nuôi máu, ở đây,
Đắng mùi, tiếng nói, nước vầy buồn hôi.
Thiếu Âm kinh thủ phải rồi,
Hợp cùng ngoại phủ, rằng ngôi tiểu trường.
Tạng Tỳ thuộc Thổ sắc vàng,
Vượng theo tứ quý, đều tàng ý vui.
Miệng chừng, nước dãi, ngọt mùi,
Tiếng ca, mạch Hoãn, hay nuôi thịt hình.
Thái Âm kinh túc đã đành,
Hợp cùng phủ vị, ngôi giành trung châu.
Tạng Phế thuộc Kim, mạch Phù,
Vị cay, sắc trắng, mùa thu, phách ròng.
Giấu hơi, nuôi khắp da, lông,
Mùi chừng, tiếng khóc, nước trong mũi thường.
Thái Âm kinh thủ cho tường,
Hợp cùng ngoại phủ đại trường ấy thông .
Tạng Thận thuộc Thủy, mùa đông,
Sắc đen vị mặn, chi dùng nuôi xương,
Tiếng rên, nước nhỏ hôi ươn,
Hai tai chừng đó, giữ phương mạch Trầm.
Phần về kinh túc Thiếu Âm,
Hợp bàng quang phủ, gìn cầm hóa nguyên.
Tiều rằng: Năm tạng đã biên,
Kìa như sáu phủ, xin liền nói ra.
Dẫn rằng: Cái mật người ta,
Tượng theo xuân Mộc, kinh là Thiếu Dương.
Đảm ngoài làm phủ cho Can,
Tóm vào muôn mối, việc toan lo lường.
Mấy chiều ruột nhỏ tiểu trường,
Tượng theo hạ Hỏa, Thái Dương kinh cầm.
Ở ngoài làm phủ cho Tâm,
Nước trôi đem xuống đặng dầm nguồn sinh.
Vị là kinh Túc Dương Minh,
Đựng theo đất chứa, việc mình uống ăn,
Bao nhiêu nước, xác chứa ngăn,
Phát ra các chỗ, chịu bằng quan ty.
Ở ngoài làm phủ cho Tỳ,
Cái bao tử ấy thật ghi công dày.
Đại trường ruột lớn liền đây,
Dương Minh kinh thủ, tượng vầy thu câm (kim).
Ngôi theo nhờ Phế hơi cầm,
Vật ăn bã xác xuống hầm phẩn ra,
Bàng quang thật bọng đái ta,
Tượng theo đông Thủy, kinh là Thái Dương.
Ngôi theo ngoài chốn thận hương,
Hóa hơi nước xuống, làm đường niệu tân.
Tam tiêu phủ ấy ba tầng,
Kiêm trên, giữa, dưới, gọi rằng tam tiêu.
Trên thâu ăn uống, nạp nhiều,
Giữa chia trong đục, dưới điều gạn ra.
Làm đường nước xác trải qua,
Nhờ ba hơi ấy tiêu hòa máu, hơi.
Trước sau bủa khắp ba hơi,
Thiếu Dương kinh thủ thật nơi dinh người.
Tiều rằng: Kinh lạc mười hai,
Tạng phủ mười một biết hài thế sao?
Dẫn rằng: Trước có lời rao:
Quyết âm kinh thủ, tâm bào lạc nêu.
Tâm bào cùng phủ tam tiêu,
Trong ngoài hai ấy chia đều âm, dương.
Muốn làm thầy đặng chữ “lương”,
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư.
Rồi đây hỏi lại Nhân Sư,
Xin phân chứng thực, chứng hư cho rành.
Ngư rằng: Kìa bến Ngũ Hành,
Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì?
Dẫn rằng: Trên, dưới hai nghi,
Có năm hành ấy, hoa ky (cơ) xây vần.
Mộc, kim, thủy, hỏa, thổ phân,
Sinh: phần ấy tốt, khắc: phần ấy hư.
Muốn cho rõ lẽ nên hư,
Coi lời sinh khắc tổ sư ca rằng:
Ngũ hành tương sinh ca (Bài ca về ngũ hành tương sinh):
Mộc sinh Hỏa chừ, Hỏa sinh Thổ,
Thổ sinh Kim chừ, Kim sinh Thủy,
Thủy sinh Mộc chừ, năm mối sinh,
Trong khoảng trời đất đều tốt lành.
Ngũ hành tương khắc ca (bài ca về ngũ hành tương khắc):
Mộc khắc Thổ chừ, Thổ khắc Thủy,
Thủy khắc Hỏa chừ, Hỏa khắc Kim,
Kim khắc Mộc chừ, năm mối khắc,
Trong khoảng trời đất thảy tai ương.
Ai mà rõ lẽ ngũ hành,
Việc trong trời đất dữ lành trước hay.
Trên thời mưa móc, gió mây,
Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.
Giữa thời nhà cửa, đền đài,
Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.
Ví dù tạo hóa mấy lò,
Hóa công mấy thợ, một pho ngũ hành.
Muốn coi phép ấy cho tinh,
Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.
Ngư rằng: Nơi ải Thiên Can,
Có non Ngũ Vận để toan việc gì ?
Chưa hay chủ vận là chi ?
Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng ?
Dẫn rằng: Mười chữ thiên can,
Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.
Anh em một gái, một trai,
Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,
Giáp, Ất: Mộc, ở Đông phương,
Bính, Đinh: Hỏa, ở Nam phương tỏ tường.
Mậu, Kỷ: Thổ, ở Trung ương,
Canh, Tân: Kim, ở Tây phương ấy thường.
Nhâm, Quý: Thủy, ở Bắc phương,
Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.
Năm ngôi chủ vận chẳng dời,
Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.
Chủ vận thi (Bài thơ về chủ vận):
Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn;
Hỏa vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;
Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;
Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu;
Thủy vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;
Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.
Năm nhà đều có túc duyên,
Vợ chồng phối hợp, tách miền theo nhau.
Anh Giáp, chị Kỷ cưới nhau,
Hóa ra vận thổ, trước sau chẳng lầm.
Ất, Canh hợp lại hóa câm,
Đinh, Nhâm hợp lại hóa trầm mộc cây.
Bính, Tân hòa thủy nước đầy,
Anh Mồ, chị Quý hóa vầy hỏa quang.
Muốn coi năm hóa tạo đoan.
Gọi rằng khách vận, này chàng nghe thơ.
Khách vận thi (Bài thơ về khách vận):
Giáp Kỷ hóa ra thổ, Ất Canh hóa ra Kim,
Đinh Nhâm hóa ra mộc, tất cả thành rừng,
Bính tân hóa ra thủy, chảy đi cuồn cuộn,
Mậu Quý hóa ra hỏa, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.
Kể từ năm ấy hóa ra,
Làm năm vận khách xây mà theo niên.
Trọn mười hai tháng một niên,
Noi theo khách vận, thay phiên đi liền.
Giả như Giáp, Kỷ chi niên,
Hóa ra hành thổ, thật truyền vận sơ.
Thổ sinh kim ấy vận nhi,
Kim sinh thủy ấy, lại trì vận ba.
Thủy sinh mộc, vận thứ tư,
Mộc sinh hỏa vận, luận từ năm nay.
Mỗi vận bảy mươi hai ngày,
Lại dư năm khắc, cứ vầy tính qua.
Lấy năm Giáp, Kỷ suy ra,
Bao nhiêu năm nữa đều là như đây.
Lại xem vận khách đổi xây,
Thái quá bất cập, lẽ này cho minh.
Năm Giáp, Bính, Mậu, Nhâm, Canh,
Thật năm thái quá, đã đành dương phân.
Năm Đinh, Ất, Kỷ, Qúy, Tân,
Thật năm bất cập, về phần âm can,
Thái quá trước tiết Đại hàn,
Mười ba ngày chẵn, giao bàn tiên thiên.
Bất cập sau tiết Đại hàn,
Mười ba ngày chẵn giao bàn hậu thiên.
Cho hay trời có hậu, tiên,
Mười can trên dưới, liền liền xây đi.
Ngư rằng: Kìa ải Địa Chi,
Có non Lục Khí, đường đi lộn nhầu.
Chưa hay chủ khí ở đâu,
Lại thêm khách khí, để âu việc gì ?
Dẫn rằng:Trong ải Địa Chi,
Có mười hai chữ, thứ đi xây vần.
Dần, Mão thuộc mộc, mùa xuân,
Tỵ, Ngọ thuộc hỏa, ở chưng mùa hè.
Mùa thu Thân, Dậu, kim khoe,
Mùa đông Hợi, Tý, nước be dũng tuyền.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi : đất liền,
Vượng theo tứ quý, chở chuyên bốn mùa.
Vậy nên sáu khí ấn bùa,
Khí phong thứ nhất, thổi lùa gió xuân,
Thứ hai, khí hỏa lửa phừng,
Thứ ba, khí thử nóng hừng viêm oai,
Thứ tư, khí thấp ướt bày,
Thứ năm, khí táo ráo bay hơi nồng,
Thứ sáu là khí hàn chung,
Sắp ra thứ lớp, giữ trong bốn mùa.
Kêu rằng chủ khí bốn mùa,
Có bài thơ cổ, để tua thuộc lòng.
Chủ khí thi (Bài thơ về chủ khí):
Khí đầu tiên là khí Quyết âm (phong mộc) bắt đầu từ tiết Đại hàn.
Khí thứ hai là khí quân hỏa, bắt đầu từ tiết Xuân phân.
Khí thứ ba là là khí Thiếu dương (tướng hỏa), bắt đầu từ tiết Tiểu mãn.
Khí thứ tư là khí thái âm (thấp thổ), bắt đầu từ tiết Đại thử.
Khí thứ năm là khí Dương minh (táo kim), bắt đầu từ tiết Thu phân.
Khí thứ sáu là khí Thái dương (hàn thủy), bắt đầu từ tiết Tiểu tuyết.
Sáu hơi chủ khí chẳng dời,
Năm nào theo nấy, tại trời ở an.
Mỗi năm từ tiết Đại hàn,
Chính trong ngày ấy giao sang khí đầu.
Hơi bình chẳng trước, chẳng sau,
“Tề thiên” hai chữ, sách Tàu rõ biên.
Kêu rằng “binh khí chi niên”,
Cho hay hơi chủ, chính chuyên giữ phòng.
Kể từ sáu cặp đối xung,
Định ngôi khách khí, xây dòng chia ra.
Tý đối với Ngọ một toà,
Làm ngôi quân hỏa, ở nhà Thiếu âm.
Sửu, Mùi cặp đối Thái âm.
Làm ngôi thấp thổ, thấm dầm năm phương.
Dần, Thân cặp đối Thiếu dương,
Làm ngôi tướng hỏa, sử đương việc mình.
Mão, Dậu cặp đối Dương minh,
Làm ngôi hàn thủy, băng sương trầm trầm.
Tỵ, Hợi cặp đối Quyết âm,
Làm ngôi phong mộc, rầm rầm gió cây.
Sáu ngôi khách khí đổi xây,
Giữ trời giữ đất, từ đây chia miền,
Giả như Tý, Ngọ chi niên.
Thật ngôi quân hoả, việc chuyên giữ trời,
Lấy hai năm ấy làm lời,
Còn mười năm nữa, cũng dời như nhau.
Khách khí thi (Bài thơ về khách khí):
Năm Tý, năm Ngọ, khí Thiếu âm quân hỏa giữ trời,
Còn khí Dương minh táo kim giữ đất.
Năm Sửu, năm mùi, khí Thái âm thấp thổ giữ trời,
Còn khí Thái dương hàn thủy giữ đất, mưa liên miên.
Năm Dần, năm Thân, khí Thiếu dương tướng hỏa giữ trời,
Còn khí Quyết âm phong mộc truyền ở trong đất
Năm Mão, năm Dậu thì ngược lại với năm Tý, năm Ngọ,
Các năm Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi, cũng vậy.
(Thìn Tuất ngược lại với Sửu Mùi ; Tỵ Hợi ngược lại với Dần Thân).
Cho hay quân hỏa giữ trời,
Táo kim giữ đất, hai nơi cầm quyền.
Một khí ở trên tư thiên,
Hai khí tả hữu xen liền theo bên…
Một khí ở dưới tư tuyền,
Hai khí tả hữu xen liền theo bên.
Trên dưới sáu khí chia miền,
Mặt nam, mặt bắc, cầm quyền một niên.
Giả như Tý, Ngọ chi niên.
Đất xen bên tả, làm truyền khí sơ,
Trời xen bên hữu, khí nhì,
Tư thiên, ngôi chính, ấy thì khí ba,
Trời xen bên tả, tư ra,
Đất xen bên hữu thật là khí năm,
Tư tuyền làm khí sáu chung,
Bốn mùa hơi khách thay dòng đổi xây.
Một khí là sáu mươi ngày,
Tám mươi bảy khắc nửa rày hữu cơ.
Ta nêu hơi khách đầu bờ,
Kìa lời yếu quyết xưa thờ rất vui.
Mỗi niên thoái lại hai ngôi,
Nhận làm làng khách, cứ xuôi đến liền.
Loại như ngôi Tý tư thiên,
Thoái về ngôi Tuất, ấy biên khí đầu.
Hai heo, ba chuột, bốn trâu,
Năm hùm, sáu thỏ, trọn xâu tư tuyền.
Lại như ngôi Mão tư thiên,
Thoái về ngôi Sửu, dấy truyền khí sơ.
Hai hùm, ba thỏ, bốn rồng,
Năm rắn, sáu ngựa, trọn công tư tuyền.
Lấy hai năm ấy lệ biên,
Bao nhiêu năm nữa, cũng truyền có phiên.
Như năm thấp thổ tư thiên,
Thời ngôi hàn thủy tư tuyền, là phiên,
Như năm hàn thủy tư thiên,
Thời ngôi thấp thổ tư tuyền, đôi phiên,
Như năm tướng hoả tư thiên,
Thời ngôi phong mộc tư tuyền, đến phiên,
Như năm phong mộc tư thiên,
Thời ngôi tướng hỏa tư tuyền trọn niên.
Lại coi khách khí dưới trên,
Chính hoá, đối hoá, hai bên chẳng đồng.
Sáu năm chính hóa gốc trồng,
Ngựa, dê, gà, cọp, heo, rồng lung tung,
Sáu năm đối hóa ngọn duồng,
Chuột, trâu, khỉ, thỏ, rắn, muông đua giành.
Chính hóa theo gốc, số sinh,
Đối hóa theo ngọn, số thành, thực, hư.
Cho hay chữ “thực”, chữ “hư”,
Rằng “tiêu”, rằng “bản” đều từ ấy ra.
Sau rồi dở sách y tra,
Tiềm tâm mới thấy lời ta tỏ bày.
Tiều rằng: Trời đất máy xây,
Năm vận, sáu khí, nghe nay tỏ tường.
Còn e khách, chủ hai đường,
Theo niên chộn rộn, khó toan rẽ ròi.
Dẫn rằng: Vận lấy vận coi,
Khí theo khí xét, có mòi sách biên.
Giả như Giáp tý chi niên,
Khách vận, khách khí, chia quyền một năm.
Giáp làm thổ vận mối cầm,
Tý làm quân hỏa, khí thầm xây đi.
Khách gia trên chủ, chẳng vì,
Chủ lòn dưới khách, hóa khi ngưng tà.
Thời trời bởi ấy chẳng hòa,
Trái theo hơn thiệt, mới ra bất tề.
Mùa xuân hơi ấm chẳng về,
Lại thêm hơi gió thê thê, ớn mình.
Mùa hè hơi nóng chẳng lành,
Khí âm núp ở, nóng giành ngôi dương.
Mùa thu chẳng trọn khí lương,
Dầm dề mưa khổ, đi đường kêu than.
Mùa đông chẳng vẹn khí hàn,
Xen hơi nóng rực, giá tan keo hình.
Phong hơn thời đất rêm mình,
Hỏa hơn thời đất quánh hình sượng câm,
Thử hơn thời đất nóng hầm,
Thấp hơn thời đất ướt dầm bùn ô,
Táo hơn thời đất ráo khô,
Hàn hơn thời đất nứt mô, lở về.
Nhớ câu: “khí hậu bất tề”,
Nhiều hơi độc ác, đổ về dân đau.
Cho hay chủ khách sinh nhau,
Gọi rằng “tương đắc”, trước sau hòa lành.
Chỉn e khách khí khắc giành,
Rằng “không tương đắc”, mới sinh bệnh tà.
Ngũ hành con soán ngôi cha,
Gọi rằng “bất đáng” mới ra lẽ ngầy.
Tiều rằng: Khí vận biến vầy,
Mấy năm thuận, nghịch, xin thầy chia riêng.
Dẫn rằng: Y học rõ biên,
Năm nào vận khắc tư thiên, nghịch tầm,
Tư thiên sinh vận, thuận tầm,
Vận đồng với khí, rằng năm thiên phù.
Sáu mươi năm giáp một chu,
Mười hai năm gọi thiên phù rõ phân.
Loại như Mậu tý, Mậu dần,
Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi.
Cùng năm Kỷ sửu, Kỷ vi,
Mão Dậu hai Ất; Hợi, Tỳ hai Đinh,
Cho hay vận khí đồng tình,
Mười hai năm ấy thật danh thiên phù.
Vận lên ngôi khí ở sau,
Gọi rằng tuế hội, đếm đầu tám chi.
Loại như Kỷ sửu, Kỷ vì,
Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm.
Đinh mão mộc, Ất dậu câm (kim),
Bính tý, Mậu ngọ, nước ngâm lửa dầu.
Thiên phù, tuế hội hợp nhau,
Gọi rằng thái ất thiên phù, bốn chi.
Loại như Kỷ sửu, Kỷ vi,
Ất dậu, Mậu ngọ, hơi đi một bờ.
Lấy năm coi tháng, ngày, giờ,
Tháng, ngày, giờ cũng có cờ tư thiên.
Giả như Mậu ngọ ngày kiên (kiến),
Vận đồng với khí, là duyên thiên phù.
Cho hay tuế hội, thiên phù,
Gặp ngày năm ấy, bệnh đau khó lành.
Ta nay ước nói việc Kinh,
Máy trời lắm chỗ gập ghềnh sâu xa.
Mười hai năm gọi bất hòa,
Bởi vận khắc khí, mới ra bất bình.
Mười hai năm gọi thiên hình,
Bởi khí khắc vận, đua giành tai nguy.
Vận mà sinh khí, lỗi nghi,
Gọi rằng tiểu nghịch thị phi nhộn nhàng.
Khí mà sinh vận thời an,
Gọi rằng thuận hóa, muôn ngàn cõi vui.
Nhiệm mầu chẳng những vậy thôi,
Can chi còn có hai ngôi đức phù.
Lại đồng tuế hội, thiên phù.
Vận đi suy tỵ phải âu xét bàn.
Nội kinh câu chữ rõ ràng :
“Cang hại, thừa chế”, khuyên chàng gắng coi.
Hữu dư, bất túc rẽ ròi,
Xuất, nhập, thăng, giáng, hẳn hòi chẳng ngoa.
Mỗi năm trước vẽ đồ ra,
Xét so vận khí chính, tà thời hay.
Như vầy mới phải gọi thầy,
Giúp công hóa dục, nuôi bầy dân đen.
E người học đạo chẳng chuyên,
Vào tai ra miệng, luống phiền lòng ta.
Tiều rằng: Kinh nghĩa kín, xa,
Một câu “cang hại…” nghe qua chưa tường.
Dẫn rằng: Đây gặp giữa đường,
Nói phô kinh sách, mang trương khó lòng.
Muốn cho biết lẽ tinh thông,
Lần vào cửa đạo, hỏi ông Đan Kỳ.
Học cho thấy chỗ u vi,
Phép mầu ý nhiệm, rộng suy giúp đời.
Ngư rằng: Xin dạy cạn lời,
Trong rừng Bản thảo nhiều nơi chưa tường.
Kìa mười hai bộ đan phương,
Mấy mùi, mấy tính, mở đường từ ai ?
Dẫn rằng: Bản thảo nhiều loài,
Kể ra cho hết chuyện này vả lâu.
Một bộ kim thạch ở đầu,
Trăm ba mươi tám giống sưu đá vàng.
Một bộ thảo thượng giàu sang,
Chín mươi lăm giống, rõ ràng hột hoa.
Một bộ thảo trung nối ra,
Chín mươi bảy giống gốc, chà, lá cây.
Một bộ thảo hạ rộng xây,
Trăm hai muwoi có ba loài củ căn.
Một bộ mộc thụ giăng giăng,
Một trăm sáu chục bảy, rằng giống cây.
Một bộ nhân ấy thuốc vầy,
Có hai chục vị đủ xây cho dùng.
Một bộ thú vật thuốc sung,
Chín mươi mốt giống mật, lòng, da, xương.
Một bộ cầm điểu thuốc thường,
Ba mươi bốn giống, đều đường cánh lông.
Một bộ trùng ngư thuốc chung,
Chín mươi chín giống, non sông khắp vời.
Một bộ mễ cốc nuôi đời,
Ba mươi tám giống, nơi nơi vun trồng.
Một bộ quả phẩm thanh phong,
Có bốn mươi giống trái nồng hơi hương.
Một bộ sơ thái khắp phương,
Sáu mươi hai giống, lá vườn thơm thơ.
Cộng mười hai bộ toán cho,
Một nghìn bốn vị, đều lò hóa công
Từ xưa có họ Thần Nông,
Thay trời trị vật, tấm lòng yêu dân.
Trải đi nếm vị khổ tân,
Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương.
Thử rồi muôn vật âm dương,
Dọn làm Bản thảo để phương cứu đời.
Thuốc tuy nhiều vị, khác hơi,
Chẳng qua sáu tính, ở nơi năm mùi.
Năm mùi dưới đất nên hình,
Trên trời cho tính, rộng vinh theo mùa,
Đắng, cay, ngọt, lạt, mặn, chua,
Năm mùi hơi giúp, khá tua chia bàn.
Cay thời hay nhóm hay tan,
Chua hay thâu góp, mặn ăn nhuyễn bền.
Đắng thời hay dội nóng lên,
Ngọt hay lơi chậm, lạt nên lọc lường.
Vị cay, ngọt, lạt thuộc dương,
Vị chua, đắng mặn tỏ tường thuộc âm.
Có vị dương ở trong âm,
Âm trong dương, ấy máy cầm nhiệm thay,
Khác nhau hơi mỏng, hơi dày,
Hơi trong, hơi đục, chỗ thay chẳng đồng.
Trọn gìn sáu tính linh thông,
Gọi rằng “thăng, giáng” ấy cùng “ôn, lương”,
Bổ hư, tả thực mọi giường,
Cho hay tính thuốc nhiều đường sâu xa.
Xưa chia năm vị ấy ra,
Làm binh sáu cửa, ngăn tà sáu dâm.
Phong mòn cày gió ầm ầm.
Có mùi cay mát giữ cầm nửa phong.
Lửa hừng cửa nhiệt nóng hung.
Có mùi mặn lạnh, chỗ phòng nhiệt môn.
Đất trong cửa thấp ướt dồn,
Có mùi cay nóng giữ dồn thấp quan.
Vàng nằm cửa táo khô khan,
Có mùi đắng ấm giữ đàng táo hương.
Nước là cửa lạnh băng sương,
Có mùi cay nóng giữ đường hàn môn.
Lại thêm sang độc một môn,
Nhóm mùi thuốc ghẻ, đóng dồn ngoại khoa.
Phải coi năm vị ấy ra,
Gọi là uý ố, gọi là phản nhau.
Có mười tám vị phản nhau,
Lại mười chín vị úy nhau chẳng hiền.
Sách y xưa có lời biên,
Phản cùng úy ố nhà truyền lời ca.
Thập bát phản ca (Bài ca về mười tám vị thuốc trái nhau):
Bản thảo nói rõ mười tám vị thuốc trái nhau:
Bán hạ, Qua lâu, Bối mẫu, Bạch liễm, Bạch cập đều trái với Ô đầu.
Hải tảo, Đại kích, Cam toại, Nguyên hoa đều trái với Cam thảo.
Các loại sâm (Nhân sâm, Huyền sâm, Đan sâm, Khổ sâm…), Tế tân, Bạch thược đều trái với Lê lô.
Thập cửu úy ca (Bài ca về mười chín vị thuốc sợ nhau):
Lư hoàng vốn là tinh tuý của lửa,
Một khi gặp Phác tiêu liền tranh nhau.
Thủy ngân chớ để gặp Tỳ sương.
Lang độc rất sợ Mật đà tăng.
Ba đậu là vị tính dữ nhất,
Riêng không thuận tình cùng Khiên ngưu,
Đinh hương chớ để gặp Uất kim.
Nha tiêu khó hợp cùng Kinh tam lăng.
Xuyên ô, Thảo ô không thuận với tê giác.
Nhân sâm rất sợ Ngũ linh chi.
Quan quế điều hòa khí lạnh rất hay,
Nhưng nếu gặp Thạch chi sẽ mất công hiệu.
Phàm chế thuốc phải xem tính thuận nghịch của các vị.
Nếu nghịch thì bào chế đừng để lẫn với nhau.
Ngư rằng: Xin cạn lời trao,
Lệ xưa dùng thuốc dường nào đặng tinh?
Dẫn rằng: Gắng sức học hành,
Rộng xem sách thuốc, gẫm tình dùng phương.
Nhớ câu đối chứng lập phương,
Quân, thần, tá, sứ đo lường chớ sai.
Vua tôi hoà hợp theo loài,
Đừng cho phản uý làm tai hại người.
Mở ra mấy cửa chỉ ngươi,
Bảy phương đã sẵn, lại mười tễ dư.
Phương là đại, tiểu, ngẫu, cơ,
Phức, cùng hoãn, cấp, sờ sờ khá trông.
Tễ là bổ, tả, tuyên, thông,
Trọng, khinh, hoạt, sáp, táo cùng thấp thôi.
Bảy phương, mười tễ biết rồi,
Mặc trau thang, tán, mặc dồi hoàn, đan.
Làm thang, làm tán, làm hoàn,
Ít nhiều cân lượng dón bàn phân minh.
Phải coi vị thuốc cho rành,
Gạn màu thật, giả, xét hình mới, lâu.
Lại xem bào chế phép mầu,
Khuyên đừng lỗi tính, nào cầu khéo tay.
Sẵn dùng muối mặn, gừng cay,
Dấm chua, mật ngọt, rượu say, đồng tiền (tiện).
Coi theo vị thuốc chế liền,
Hoặc sao, hoặc nướng, hoặc chuyên nấu dầm.
Chớ cho vị độc hại thầm,
Khiến vào kinh lạc chẳng lầm mới hay.
Mật ong vào phế là thầy,
Muối kia vào thận, dấm này vào can.
Nước gừng vào chỗ tỳ quan,
Rượu cùng nước đái vào đàng tâm kinh.
Cho hay mấy vị dẫn kinh.
Muốn nên công hiệu, phải tinh chế dùng.
Vị nào dùng sống, sạch tinh,
Vị nào dùng chín tốt hình mới nên.
Lại gìn năm cấm chớ quên,
Răn người uống thuốc cho bền cữ ăn.
Mặn thời máu chạy làm nhăng,
Hỡi ôi bệnh huyết chớ ăn mặn mòi.
Cay thời hơi chạy chẳng thôi,
Hỡi ôi bệnh khí chớ giồi ăn cay.
Đắng thời hay chạy xương ngay,
Hỡi ôi cốt bệnh đắng rày chớ ăn,
Chua thời hay chạy gàn săn,
Hỡi ôi cân bệnh chớ ăn chua nhiều.
Ngọt thời thịt chạy có chiều,
Hỡi ôi nhục bệnh chớ nhiều ngọt ăn.
Thánh xưa cặn kẽ bảo răn,
Hễ bưng thuốc uống, vật ăn phải dè.
Vật ăn nhiều món khắt khe,
Miệng thèm chẳng nhịn, thời e hại mình.
Giả như thuốc có Truật, Linh,
Thấy mùi tỏi, dấm thật tình chẳng ưa.
Uống trà thời chớ ăn dưa,
Hoàng liên, Cát cánh phải chừa thịt heo.
Thường sơn, hành sống chẳng theo,
Địa hoàng, củ cải, lại chèo nhau ra.
Thịt trâu, Ngưu tất tránh xa,
Xương bồ, Bán hạ chẳng hoà thịt dê.
Vật ăn khắc thuốc bộn bề,
Mỡ, dầu, thịt, cá ê hề…noi dai.
Trái cây rau sống nhiều loài,
Cữ kiêng thời khá, kèo nài thời đau.
Ta xin đón nói một câu :
“Bệnh tòng khẩu nhập”, phải âu giữ mình.
Phép dùng thuốc muốn cho tinh,
Hợp theo nước, lửa, sinh, thành số dương.
Như vầy mới thật tiên phương,
Mới rằng tâm pháp rộng đường xưa nay,
Sau rồi coi sách thời hay,
Lời ca thi quyết ta nay truyền lòng:
Dựng dược tổng quyết (Tổng quyết về phép dùng thuốc):
Các vị làm quân, làm thần phải hòa hợp, không trái nghịch.
Bảy phương mười tễ đều có phép tắc,
Hoặc sắc thành thang, viên làm hoàn, tán làm bột, luyện làm đan, liệu mà châm chước.
Các vị thuốc thực, giả, mới, cũ phải xem xét tỉ mỉ.
Theo phép tắc mà bào chế, chớ cậy khéo léo,
Vị chín thì thăng, vị sống thì giáng, phép cũ định rồi.
Cho uống kịp thời, lại phải biết những điều kiêng kỵ,
Dùng cho đúng và hợp, không sơ sót, đó là thuốc tiên.
Chế dược yếu phương (Những điều quan trọng trong việc chế thuốc):
Nguyên hoa vốn lợi thủy, nhưng không sao dấm không thông.
Đậu xanh vốn giải độc, nhưng để nguyên vỏ không công hiệu,
Thảo quả chữa đầy bụng, nhưng để vỏ lại sinh tức ngực,
Hắc sửu để sống lợi thủy, gặp Viễn chí thành có độc,
Bồ hoàng để sống thông huyết, dùng chín thì bổ huyết.
Địa du là thuốc cầm huyết, nhưng dùng ngọn thì huyết không cầm.
Trần bì chuyên chữa khí, nếu để cả màng trắng thì bổ vị.
Phụ tử là vị cứu dương, nếu dùng sống thì chữa được bệnh phong ngứa.
Thảo ô chữa phong tê, nhưng dùng sống lại gây bệnh.
Nhân ngôn đốt qua hãy dùng.
Các loại đá thì phải nung,
Ngâm dấm thì mới tán nhỏ được,
Lề lối phải cho khéo.
Xuyên khung phải sao bỏ chất dầu, vì dùng sống sinh tê đau.
Dược hữu cửu trần ca (Bài ca về kinh nghiệm dùng chín vị thuốc):
Trần bì, Bán hạ với Hương nhu,
Chỉ thực, Chỉ xác, Ngô thù du,
Kinh giới, Ma hoàng cùng Lang độc,
Muốn hay, cần phải để cho lâu.
Tiều rằng: Xuân, hạ, thu, đông,
Bốn mùa dùng thuốc chữa thông đạo thường.
Dẫn rằng: Trời bốn khí thường,
Xuân ôn hạ nhiệt, thu lương, đông hàn.
Theo mùa dùng thuốc thời an,
Mùa nào khí nấy, phải toan nhớ dồi.
Mùa xuân thời khí nóng bồi,
Hốt trong thang thuốc gia mùi thanh lương.
Mùa hè thời khí nóng thương,
Hốt trong thang thuốc thêm lương cho nhiều,
Mùa thu khí mát hiu hiu,
Gia vào vị ấm mới điều hơi dương.
Mùa đông khí lạnh thấu xương,
Gia vào vị nóng ngăn đường tà âm,
Nào lo trị bệnh, thuốc lầm,
Bốn mùa tay thước đều cầm ở ta.
Kinh rằng : “Vật phạt thiên hòa,
Tất tiên tuế khí” ấy là lời ngay.
Đạo thường giữ vậy thời hay,
Dù nhằm bệnh biến mặc tay dùng quyền.
Làm thầy há dễ một thiên,
Lòng hay chế biến cho chuyên mới ròng.
Tiều rằng: Tinh thuốc bằng thông,
Cứ theo Bản thảo xây dùng nên chăng ?
Dẫn rằng: Bản thảo ó ngằn,
Coi kinh Tố vấn bệnh căn mới tường :
Biết đau bởi khí nào thương,
Thừa theo tính thuốc, dựng phương ra dùng.
Hỡi ôi học thuốc dày công,
Còn nhiều phép bí ở ông Đan Kỳ.
Ngư rằng: Mối đạo rừng Y,
Nối qua mở lại, tên gì xin nghe ?
Dẫn rằng: Ta chẳng nói khoe,
Lớn thay đạo thuốc chống bè hóa công.
Viêm Hoàng là họ Thần Nông,
Dọn ra Bản thảo,thật công mở đầu.
Có vua Hoàng Đế ráp sau,
Cùng ông Kỳ Bá hỏi nhau nạn đời.
Nội kinh từ ấy nên lời,
Văn trời, lý đất, bệnh người đủ biên.
Nhờ câu “y đạo đại nguyên”,
Một pho Tố vấnlưu truyền xưa nay.
Hai mươi bốn quyển rõ bày,
Trong chia tám chục một rày thiên danh.
Mấy lời đại luận rất tinh.
Phép màu, ý nhiệm máy linh không cùng.
Vẽ đường kinh lạc ngoài trong,
Xây năm vận khí, cách chồng theo năm,
Trị ngoài có phép biếm châm,
Trong thời thang dịch sửa cầm mạng dân.
Từ Hiên, Kỳ thị xuống lần,
Đời nào cũng có bậc thần thánh ra.
Như ông Biển Thước nhà ta,
Tám mươi mốt quyển gọi là Nạn kinh
Như ông Hoàng Phủ tài lành,
Dọn Kinh Giáp Ất để danh thơm đời,
Hán, Đường nhẫn xuống nhiều đời,
Ông Trương Trọng Cảnh mấy người dám tham ?
Coi pho Kim quỹ ngọc hàm
Trong, ngoài, hư, thực, phép làm rộng xa.
Hà Gian Lưu tử nối ra,
Bệnh nguyên, yếu chỉ,sách nhà hai pho.
Đông Viên ông Lý trời cho,
Mười pho bạt tụy, ý dò thẳm sâu.
Đan Khê lại có thầy Chu,
Nhóm kinh sách thuốc đặng pho đại thành.
Ấy đều nơi gốc Nội kinh,
Diễn ra làm sách tinh anh cứu người.
Y thư kể hết các nơi,
Buồn trâu đầy cột, sách đời biết bao.
Tiều rằng: Sách thuốc chào rào,
Bọn ta tính học bộ nào cho hay ?
Dẫn rằng: Đạo thuốc xưa nay,
Hơn trăm bộ sách, đều tay thánh hiền.
Người sau lấy việc công truyền,
Tới trong có chỗ chú biên lỗi lầm.
Hỡi ai muốn trọn đạo tâm,
Xét nguồn, tỏ gốc, rộng tầm trong Kinh.
Nghĩa là Kinh biết đặng tinh,
Chỗ hay nương lấy ý mình suy ra.
Lại coi các sách bách gia,
“Chiết trung” hai chữ, mặc ta học đòi.
Đạo đời ai dễ giấu mòi ?
Dón nơi đại khái, hẳn hòi chỉ cho.
Trước coi Bản thảo làm đò,
Sau xem Tố vấn, chín so bệnh tình.
Muốn sai vị thuốc hành kinh,
Lôi công Bào chế phép linh để lòng.
Muốn xây thang dịch cho ròng,
Phép ông Y Doãn, tới trong lo lường.
Bệnh người ngoại cảm nhiều phương,
Học ông Trọng Cảnh một đường cho chuyên.
Nội thương học phép Đông Viên,
Bao nhiêu chứng nhiệt học quyền Hà Gian.
Kìa như tạp bệnh nhộn nhàng,
Đan Khê phép cũ, khuyên chàng sử đương.
Mạch kinh đọc sách họ Vương,
Sự thân đọc sách ông Trương Tử Hòa.
Hỡi ơi nghề thuốc lắm khoa,
Kể cho hết sách, nói ra bướu thừa.
Sách nhiều mà lý càng thưa,
Phương nhiều mà phép so xưa lỗi dòng
Muốn cho nguồn sạch dòng trong,
Nêu ngay bóng thẳng, ghi lòng lời ta.
Ngư rằng: Miếu tổ một toà,
Thờ trong bài vị ấy là bậc chi ?
Dẫn rằng: Trong miếu rừng y,
Tổ xưa vốn họ Phục Hy làm đầu.
Thiên nguyên ngọc sách trước trau,
Mười đời tới Quỷ Du Khu đọc truyền.
Linh khu, Tố vấn noi biên,
Nối theo vua thánh, tôi hiền dạy ra.
Họ tên kể đặng mười ba,
Đều người thượng cổ y khoa mở dòng.
Nho y bốn chục một ông,
Đều người kinh sử dày công học hành.
Theo trong khoa mục là mình,
Trương, Tôn bọn ấy dõi danh trên đời.
Minh y chín chục tám người,
Tần, Sào bọn ấy tài tươi sáng lòa.
Thế y hai chục sáu nhà,
Lâu, Từ bọn ấy nối cha nghiệp này.
Đức y mười có tám thầy,
Từ, Tiền bọn ấy lòng đầy yêu thương.
Tiên y như bọn Trường Tang,
Có mười chín họ, truyền phang nhiệm màu.
Tính danh cộng đếm trước sau,
Hai trăm một chục năm đầu tiên sư.
Tiều rằng: Trước họ Phục Hy,
Chưa hay nghề thuốc tên chi mở đàng ?
Dẫn rằng: Người thuở Tam hoàng,
Có ông Tựu Thải mở mang mối đầu.
Dạy ông Kỳ Bá học sau,
Huyệt do kinh lạc, phép mầu cứu châm.
Ngư rằng: Trong phép cứu châm,
Chẳng chờ thuốc uống mà âm dương hòa.
Xin lời vàng ngọc nhả ra,
Sách ông nào bí, vẽ ta học hành.
Dẫn rằng: Muốn học máy linh,
Coi chừng trời đất trong hình người ta.
Độ trời giáp một năm qua,
Ba trăm sáu chục lẻ ra năm ngày,
Mình người kể khắp chân tay,
Ba trăm sáu chục năm vài lóng xương.
Đếm theo kinh lạc âm dương,
Ba trăm sáu chục năm đường huyệt danh,
Khá coi Hoàng Phủ Châm kinh,
Cảnh Khôi Cứu pháp cùng Minh Đường đồ
Huyệt nào sâu cạn phải đo,
Bệnh nào bổ tả phải dò cho thông,
Nhớ câu “đoạt dược chi công”,
Phép châm cứu ấy chẳng đồng phương thơ (thư).
Tiều rằng: Ta hãy còn mờ,
Ngoại khoa phép bí, biết thờ ông chi ?
Dẫn rằng: Từ thuở Hiên, Kỳ,
Có ông Du Phủ khôn bì ngoại phang,
Bệnh người chẳng dụng thuốc thang,
Xẻ đầu, mổ bụng, rửa gan, cạo trường,
Hoa Đà sách cũng khác thường,
Hùng kinh chi cố, nhiều phương rất kỳ.
Cho hay mấy bậc thần y,
Để kinh sách lại thiếu gì ngoại khoa.
Đan Khê sau nhóm các nhà,
Bổ di một bộ ngoại khoa thêm rành.
Khuyên ngươi gắng đọc Nội kinh,
Sờ sâu, mò kín, tỏ tình ngoài, trong.
Ngư rằng: Kìa bốn lầu song,
Chưa hay bốn ấy để phòng coi chi ?
Dẫn rằng: Tâm pháp nhà y,
Vọng, văn, vấn, thiết, chữ ghi bốn lầu,
Vọng là xem sắc người đau,
Văn là nghe tiếng nói màu thấp cao,
Vấn là hỏi chứng làm sao,
Thiết là coi mạch bộ nào thật hư.
Sau rồi thong thả học sư,
Bốn lời yếu quyết ta chừ đọc cho.
Quan hình sát sắc (Xem hình dáng, xét khí sắc):
Thứ nhất là xem thần khí, sắc của người bệnh,
Xem nhuận hay khô, gầy hay béo, dậy cùng nằm thế nào.
Nhuận thì sống, khô thì chết, béo là thực,
Gầy là hư yếu, xưa nay vẫn truyền.
Lom khom là trong lưng đau, nhìn biết ngay.
Chau mày là nhức đầu, chóng mặt.
Tay không nhấc lên được là vai và lưng đau.
Bước đi khó nhọc là đau trong khoảng ống chân,
Chắp tay đè trước ngực là trong ngực đau,
Đè trước rốn là đau trong vùng bụng,
Trở dậy không ngủ được là đờm và nhiệt;
Thích ngủ là vì lạnh và hư khiến nên,
Quay mặt vào vách nằm co ro, phần nhiều là vì lạnh.
Ngửa mặt nằm sóng soải là vì bị nóng nung nấu.
Mặt, trên người và con mắt có màu vàng là bị bệnh thấp nhiệt.
Môi xanh, mặt xạm đen cũng là bị lạnh như trên.
Thính thanh âm (Nghe giọng, xét tiếng cười):
Thứ hai là nghe xem tiếng trong hay đục;
Xét xem người bệnh nói thật hay nói xàm.
Tiếng đục biết ngay là bị đờm vướng lấp;
Tiếng trong, đó là vì bị lạnh ở bên trong,
Lời nói rõ ràng thì không phải là thực nhiệt;
Nói bậy và kêu gào thì bệnh nhiệt đã sâu lắm rồi.
Nói chuyện ma quỷ, lại còn trèo tường, leo mái nhà,
Đó là ngực bụng có đọng đờm, gọi là bệnh điên.
Lại có thứ bệnh kéo dài đã lâu ngày,
Bỗng nhiên mất tiếng, thì mạng ôi thôi !
Vấn chứng (Hỏi chứng lạnh):
Thử hỏi đầu mình có đau hay không,
Nóng lạnh không ngớt thì rõ ràng là bệnh ngoại cảm.
Bàn tay nóng, ăn không biết ngon,
Đó là nội thương vì ăn uống hay nhọc mệt quá sức.
Trong lòng bồn chồn lại thêm bị ho,
Người gầy gò, đó là chứng âm hư hỏa động.
Trừ ba chứng ấy ra, còn thì các chứng khác,
Như sốt rét, kiết lỵ đều có tên.
Từ đầu tới chân phải hỏi cho rõ.
Chứng bệnh tương tự, cần nghe cho cặn kẽ.
Tạng phủ định vị (xác định vị trí các tạng phủ):
Tay trái là tim, ruột non, gan, mật, thận ;
Tay phải là phổi, ruột già, lá lách, dạ dày và mệnh môn.
Tim và ruột non ứng với bộ Thốn tay trái.
Gan, mật cùng hội về bộ Quan tay trái.
Mạch thận nguyên ở bộ Xích tay trái.
Bàng quang là phủ của thận cũng ở đấy.
Phổi cùng ruột già ứng với bộ Thốn tay phải.
Lá lách, dạ dày xem ở bộ Quan tay phải.
Màng tim sóng đôi với tam tiêu, hợp với bộ Xích tay phải.
Đó là bí quyết cho kẻ mới học nghề y.
Tiều rằng: Xem bệnh tử sinh,
Phép ông nào trọn, xin rành dạy ta ?
Dẫn rằng: Xưa có Thúc Hòa,
Xem hình, xét sắc, ít nhà dám chê.
Chẳng chờ miệng nói tai nghe,
Mấy mòi sống thác khôn che mắt thần.
Nay trau con mắt phong trần,
Coi lời ca quyết sáng ngần hơn châu.
Vương Thúc Hòa quan bệnh sinh tử hậu ca (Bài ca về phép xem triệu bệnh sống chết của Vương Thúc Hòa):
Bệnh sắp khỏi, vè mắt có sắc vàng (vị khí đã lưu hành).
Vành quanh mắt thình lình trũng xuống, biết chắc là chết (ngũ tạng tuyệt).
Tai, mắt, mũi, miệng nổi sắc đen,
Đã lan vào đến miệng thì mười phần có đến tám là khó cứu (thận khí chế vi khí),
Mặt vàng, mắt xanh thường do uống rượu quá say,
Dể gió tà xông vào vị nên mất mạng (mộc khắc thổ).
Mặt đen, mắt trắng là mệnh môn hỏng.
Trong người lại thấy quá nhọc mệt, thì tám ngày chết.
Trên mặt thình lình thấy có sắc xanh,
Nếu như dần dần trở thành màu đen là chết, khó cứu (can và thận tuyệt).
Mặt đỏ, mắt trắng, lại thở khò khè thì rất đáng sợ,
Đợi qua mười ngày sẽ rõ sống hay chết (hỏa khắc kim).
Sắc vàng, đen, trắng nổi lên chạy vào mắt,
Vào cả mũi, miệng là có tai vạ (thận chế tỳ).
Nếu lại thêm mặt xanh, mắt vàng thì giờ Ngọ sẽ chết,
Còn lại thì cũng chỉ sống trong vài ngày là cùng (mộc khắc thổ).
Mắt không có tinh thần, lợi răng có sắc đen (tâm và can tuyệt).
Mặt trắng, mắt đen cũng là tai vạ (phế và thận tuyệt)
Miệng mở ra như miệng cá, không ngậm lại được (tỳ tuyệt),
Thở ra mà không hít vào thì mạng lên tiên (can và thận đã tuyệt trước).
Vai xo lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên, mắt trợn ngược, môi khô,
Mặt sưng lên lại có sắc xám hay đen cũng khó thoát chết.
Nói xàm bậy bạ hay không nói gì,
Hơi thở nặng mùi như xác chết, biết là không thọ (tâm tuyệt).
Nhân trung đầy hết lên, miệng và môi xanh,
Nên biết là ba ngày mạng không còn (mộc khắc thổ).
Chỗ giáp lưỡng quyền (hai gò má) đỏ, là bệnh tim đã lâu.
Miệng há, thở ra thì mạng khó sống (tỳ và phế tuyệt).
Chân đau, ngón sưng, đầu gối sưng to như cái đấu,
Nên biết là khó giữ mạng sống trong mười ngày (tỳ tuyệt).
Gân cổ lỏng lẻo biết chắc là chết (mạch Đốc tuyệt).
Trong lòng bàn tay không còn ngấn vết cũng sống không lâu (màng tim tuyệt).
Môi xanh, mình lạnh, nước tiểu cứ són ra (bọng đái tuyệt).
Thấy đồ ăn thức uống thì quay mặt đi, hẹn trong bốn ngày sẽ chết (can tuyệt)
Móng chân, móng tay đều xanh đen,
Xương sống đau, lưng nặng, trở mình khó,
Đó là xương tuyệt, năm ngày rồi xem.
Mình nặng, nước tiểu đỏ lại són ra không ngớt,
Đó là thịt tuyệt, sáu ngày là chết.
Móng chân, móng tay xanh, thường chửi rủa la thét,
Đó là gân tuyệt, khó qua được chín ngày.
Tóc cứng như sợi gai, nửa ngày là chết (ruột non tuyệt).
Lần áo, nói chuyện chết, mười phần biết là hỏng (tâm tuyệt).
Ngư rằng: Mạch lý u vi,
Chưa hay hình trạng mạch đi ít nhiều ?
Dẫn rằng: Tên mạch rất nhiều,
Hai mươi tám trang sách nêu rõ ràng.
Chẳng qua hai chữ âm dương,
Muốn cho phân biệt coi thường lề biên.
Chu mạch thể trạng (Hình trạng các mạch):
Mạch Phù ấn xuống thấy yếu, nâng lên thấy mạnh,
Mạch Trầm ấn xuống thấy mạnh, nâng lên thì không thấy,
Mạch Trì, một hơi thở đến ba lượt.
Mạch Sác một hơi thở đến sáu lần.
Mạch Hoạt như chuỗi hạt trai và đi, lại mau,
Mạch Sắc đi lại vướng như róc da tre.
Mạch Đạiấn nổi thì đầy ngón tay, ấn chìm thì không có sức
Mạch Hoãn so với mạch Trì nhanh hơn chút,
Mạch Hồngnhư nước lụt nổi sóng lên.
Mạch Thực ấn thấy găng tay, mạnh khác hẳn.
Mạch Huyền thẳng rẵng như giương dây cung.
Mạch Khẩn như là mới kéo dây, vặn chạc.
Mạch Trường qua ngón tay, ra ngoài bộ.
Mạch Khâu hai đầu có mà giữa thưa không.
Mạch Vi như tơ nhện, khá dễ xét.
Mạch Tế đi lại như sợi chỉ càng dễ coi,
Mạch Nhu không có sức không ưa ấn.
Mạch Nhược thì như muốn đứt, nửa có, nửa không,
Mạch Hư tuy mở rộng song không chắc,
Mạch Cách, rất bền vững, như ấn vào da trống.
Mạch Động như hạt đậu lăn, không có đi, lại,
Mạch Tán chốc chốc mới thoáng tới đầu ngón tay.
Mạch Phục ấn xuống sát xương mới thấy.
Mạch Tuyệt thì không có hẳn, tìm cũng uổng công,
Mạch Đoản ngay trong bộ cũng không tới.
Mạch Xúc đến mau gấp, dần dần khoan đi là đáng mừng.
Mạch Kết đi chậm, thỉnh thoảng lại dừng.
Mạch Đại cũng dừng giữa chừng mà không trở lại được.
Tiều rằng: Tên mạch đã trao,
Mạch nào chuyên chủ bệnh nào xin nghe.
Dẫn rằng: Chẳng mếch chẳng phe,
Mạch nào chứng nấy, tay đè thì hay.
Xiết bao trong sách nhiều thầy,
Sẵn lời ca quyết ta rày vẽ ngươi.
Chư mạch chủ bệnh (Các bệnh thể hiện qua hình trạng mạch):
Phù là bệnh phong, Khâu là bệnh huyết, Hoạt là nhiều đờm,
Thực là bệnh nhiệt, Huyền là bệnh lao, Khẩn là bị đau đớn.
Hồng là bệnh nhiệt, Vi là bệnh hàn, đều tích tụ dưới rốn.
Trầm là đau vì khí, Hoãn thì da tê.
Sắc là bị tổn tinh âm, hại huyết.
Trì cũng là bệnh lạnh, Phục là bệnh ở cách quan.
Nhu thường bị toát mồ hôi, riêng người già thường mắc.
Nhược là tinh khí thiếu, xương và thân thể ê ẩm,
Trường là khí tốt, Đoản thì khí bị bệnh.
Tế là khí ít, Đại là khí suy.
Xúc là bệnh nhiệt cùng cực, Kết là tích tụ.
Hư là bệnh kinh giật, Động là thoát bị ra máu liên tiếp.
Sác là bệnh trong lòng buồn bực, Đại là bệnh đang tiến.
Cách là bệnh di tinh, băng huyết, cũng lạ lùng thay.
Tiều rằng: Thầy thuốc nói thường,
Thất biểu, bát lý, chín đường mạch chi?
Dẫn rằng: Ấy thật tục y,
Thấy đâu nói đó, biết gì Mạch kinh,
Ta từng coi sách Mạch kinh,
Chín đường, biểu, lý, không danh mục đề.
Mạch kinh đã chẳng nêu đề,
Đến ông Trọng Cảnh ròng nghề nào biên.
Ngư rằng: Gốc bởi ai truyền,
Cớ sao sách thuốc còn biên làm gì ?
Dẫn rằng: Sách thuốc thiếu chi,
“Hãn ngưu sung đống” câu ghi trước tường.
Gốc ra từ họ cao Dương,
Đặt tên mạch ấy mạo Vương Thúc Hoà.
Nối sau, họ Đới đồng ra,
Mạch thư san ngộ cứu tra dọn rồi.
Đan khê chẳng nỡ bỏ trôi
Để cho hậu học làm dùi chiết trung.
Hỡi ôi mạch lý nhiều ông,
Ông nào ý nấy, rồng rồng đua nhau.
Những kiêm nhau với giống nhau,
Coi vào mạch lý lộn nhầu như tương.
Nói cho rộng chước y phương,
Rọt đồng hồ, cũng về đường tứ tông.
Phù, Trầm, Trì, Sác, tứ tông,
Tóm coi ba bộ cho ròng thời hay.
Nghìn xưa bốn mạch đón thay!
Lời ca tâm pháp ta nay thuộc lòng:
Tổng khan tam bộ mạch pháp (Tổng quát về phép xem mạch ba bộ):
Mạch hội ở kinh Thái âm, xem ở đó có thể biết sống chết,
Thốn, Quan, Xích đủ cả tình hình âm dương.
Bằng ba cách ấn nổi, ấn giữa, ấn chìm mà biết mạch đi trì hay sác.
Thuận hay nghịch, thực hay hư đều ứng với ngũ hành.
Nào cửu hậu, nào thập biến, rất là phiền phức
Nhưng đều do tạng phủ hợp lại mà thành ra.
Mạch ba bộ mà đủ thì dễ biết bệnh,
Nhưng nếu khi đến, khi không đến thì thật khó có bằng cứ.
Mạch lên, xuống, đi, lại đều có dấu vết,
Nên tìm mạch, tay phải cứng và nằm ngang.
Duy có mạch Thiên hòa thì không ứng,
Nhảy gấp khác thường là thuộc kỳ kinh.
Một mạch mà biến hai lần chớ lo là lạ,
Nam hay nữ cũng vậy, nếu thấy nó giữa giờ Dần chớ lo sợ hão,
Năm mươi là số chót của phép Thái diễn,
Theo ngôi chủ tiên thiên mới biết là thiêng liêng.
Bốn mùa đều lấy khí của vị làm gốc,
Sáu Giáp kế tiếp nhau như anh với em.
Gọn gàng thay phép tứ mạch để lại cho ngàn đời,
Lập ra then chốt để xem động tĩnh thật giản dị và rõ ràng.
Chẳng cần hỏi ở kinh nào hay tạng phủ nào,
Chỉ cần đinh ninh xét rõ mạch mạnh hay yếu.
Muốn rõ gốc nguồn, không có sự khéo léo nào khác,
Chỉ cốt là khi xem mạch thì tâm thần phải trong sạch.
Phép hay nhóm một thiên này,
Ý sâu, nghĩa kín, vốn thầy bách gia.
Thêm còn Y quán dọn tra
Kiêm lời tiểu tự biên ra hẳn hòi.
Cứ theo thiên ấy tóm coi,
Thực hư ba bộ, biết mòi tử sinh.
Lạ thay mấy mạch kỳ kinh,
Thiên hoà, chẳng ứng nhiều anh dốt ngầm.
Ngư rằng: Tấm biển Y lâm,
Chữ “Tam Công” ấy, chủ cầm ý chi ?
Dẫn rằng: Bốn chữ phép kỳ,
“Vọng, văn, vấn, thiết”, bậc ghi ba tầng.
Thượng công là chữ “vọng văn”,
Trung công chữ “vấn” chủ rằng thông minh.
Hạ công chữ “thiết” đã đành,
Trong ba bậc ấy tài lành khác nhau.
Ba công nghề nghiệp lau làu,
Coi kinh Tố vấn thấy màu thợ hay.
Ngư, Tiều, đều dậy vòng tay,
Rằng: Xin lạy tạ gặp nay lời lành.
Tuy chưa đến cửa cao minh,
Trước dà nghe dạy mở tranh lấp rào.
Mấy hồi lòng chịu miệng trao,
Phá ngu phát rậm, biết bao nhiêu lời.
Bấy lâu ngồi giếng xem trời,
Dòm beo trong ống, đạo đời biết đâu.
Dẫn rằng: Bằng hữu giúp nhau,
Miễn cho trọn nghĩa theo câu ngũ thường.
Phần ta học hãy tầm thường,
Còn nhờ một bạn tê Đường Nhập Môn.
Nhập Môn học có tiếng đồn,
Rộng thông kinh sử, trí khôn vượt bầy.
Nhà nho đèn sách công dày,
Tài kiêm tám đấu, sách đầy năm xe.
Văn chương ai cũng muốn nghe,
Phun châu, nhả ngọc báu khoe tinh thần.
Vì câu ” sinh bất phùng thần”,
Dẹp nghề cửa Khổng theo phần kỹ lưu.
Đan Kỳ đồ đệ trước sau,
Đều nhường tên ấy ở đầu y sinh.
Ngư, Tiều nghe nói tỏ tình,
Nhìn rằng tên ấy tiền trình vốn quen,
Nhớ xưa cũng bạn sách đèn,
Nước loàn nên mới thân hèn lìa nhau.
Tấm lòng mơ tưởng bấy lâu,
Chưa hay tông tích ở đâu đi tầm (tìm) .
Ngư, Tiều đang lối mừng thầm,
Xảy nghe ngoài cửa tiếng ngâm thơ rền,
Gió trong đưa dắt hơi lên,
Trước am Bảo Dưỡng nghe rền lời thơ.
Nhập môn ngâm thơ rằng:
Hoa cỏ ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi, có hay không ?
Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời hung,
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông
Nghe rồi Đạo Dẫn vội vàng,
Bước ra trước cửa rước chàng Nhập Môn.
Ngư, Tiều nhìn thấy Nhập Môn,
Chạnh lòng bạn cũ, bôn chôn hỏi chào,
Miệng cười mà nước mắt trào,
Mừng thương giao cách, biết bao nhiêu tình.
Mừng là mừng gặp bạn lành,
Thương là thương đạo ở mình hèn lâu.
Luống ôm báu tốt minh châu,
Ở nơi nước tối, ai hầu biết ai.
Cách nhau mười mấy năm dài,
Gặp nhau một thuở, dễ phai lòng này.
Việc nhà ấm lạnh rủi may,
Cùng nhau trót đã tỏ bày căn duyên.
Môn rằng: Cám cảnh bạn hiền,
Người sông, kẻ núi lưu liên bấy chầy.
Từ năm dứt hội rồng mây,
Những ngờ chúng bạn theo bầy tinh chiên.
Buồn xem trong đất U Yên,
Y quan xưa hóa nón chiên áo cầu.
Người so cầm thú khác nhau,
Vì noi lễ nghĩa, giữ câu cương thường.
Tuy rằng ở cuộc tang thương,
Tấm lòng ngay thảo nào thường đổi xây.
Hai người tài trí vượt bầy,
Chẳng tham danh lợi buổi này khá khen
Dẫn rằng: Mấy mặt như sen,
Đứng trong bùn lấm, mà bèn sạch trơn.
Chưa hay trong ý cao nhơn (nhân),
Lời thơ ngâm trước còn hờn, trông chi ?
Môn rằng: Ta đọc sách y,
Thấy trong vận khí xây đi nhiều tòa,
Trời đông mà gió tây qua,
Hai hơi ấm mát chẳng hòa, đau dân.
Nhớ câu “vạn bệnh hồi xuân”,
Đòi ngày luống đợi Đông quân cứu đời.
Tiều rằng: Nào xiết lo đời,
“Vinh, khô” hai chữ, mặc trời chủ trương.
Thánh kinh còn chữ “xuân vương”,
Trong, ngoài, há dễ lộn đường Hoa, Di.
Đạo đời có thịnh có suy,
Hết cơn bế bĩ, đến kỳ thái hanh.
Ngư rằng: Gặp thuở thái hanh,
Bọn ta cũng đặng rạng danh nước nhà,
Chỉn e đời xuống càng xa,
Tấm lòng nhân dục đắm sa lở bờ.
Dẫn rằng: Gặp bạn Thi,Thư,
Luống bàn lý sự, bao giờ cho xong.
Ai ai cũng có tấm lòng,
Biển sâu chưa hẳn đục trong lẽ nào.
Nay xin mở tiệc tửu hào,
Phú thi vài lối tầm phào nghe chơi.
Ngư, Tiều, Môn, Dẫn bốn người,
Cùng nhau ăn uống vui cười ngỏa nguê.
Môn rằng: Nam, bắc, đông, tê (tây),
Gặp nay thơ biết cảnh đề ra chi?
Dẫn rằng: Nào phải trường thi,
Ra đề hạn vận, một khi buộc ràng!
Trượng phu có khí ngang tàng,
Rộng cho phóng tứ làm bàn thi tiên.
Noi theo đạo cũ kim liên,
Cùng nhau xướng họa đoản thiên nối bài.
Mặc dù hai chữ tả hoài,
Việc xưa được mất bởi ai, cớ gì?
Người xưa sao có thị phi?
Đạo đời sao có thịnh suy chẳng đồng?
Học theo ngòi viết chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.
Họ Đường mở vận xướng đầu,
Sau Châu Đạo Dẫn nối theo họa liền.
Nhập môn xướng rằng:
Đời hoàng rồi đế, đế rồi vương,
Từ dấu vương sau bá dọn đường.
Ai cấm đỉnh Chu người Sở hỏi,
Máy trời đã mở tiệm giày sương.
Đạo Dẫn họa rằng:
Nghìn năm có một hội minh lương,
Vua thánh tôi hiền vững bốn phương.
Nhớ thuở khóc lân treo bút đạo,
Mặc tình trời đất với quân vương.
Nhập môn xướng rằng:
Tà thuyết đua ra lấp nẻo đường,
Bủa lời Dương, Mặc, nét Thân, Hàn.
Sự đời bóng rối cười ông Lão,
Nợ nước khô lâu khóc họ Trang.
Tiều họa rằng:
Nửa nghìn chưa gặp vận sông Vàng,
Năm nhạc, hơi che một chữ quang,
Khổng thánh còn mang lời hạ quỷ,
Mạnh hiền luống chịu tiếng Tàng Thương.
Nhập môn xướng rằng:
Kiếm phù Hán tổ đãi Hàn công,
Nệm gối Đường tông sánh vợ chồng.
Hai chữ cương thường như thế ấy,
Dầu lân, điềm phụng, vội khôn trông.
Ngư họa rằng:
Bạo Tần dọn chỗ sẵn cho Lưu,
Trời khiến bầy hùng dấy đuổi hươu.
Lửa đốt A Phòng đền lửa sách,
Hầm chôn hàng tốt trả hầm nhu (nho).
Đạo Dẫn ngâm rằng:
Thuở nào năm ngựa lội sông nam,
Lắm bậc tài danh mấy có làm
Người Địch chống chèo thề cũng luống,
Họ Đào vận bịch sức còn tham.
Nhập môn ngâm rằng:
Công danh bọn trước rủi xiêu bè,
Biển bụi lênh đênh sóng gió đè.
Rồng phụng Kinh Châu còn mắc núp,
Chó gà Tề khách chớ nên khoe.
Tiều ngâm rằng:
“Mông thỏ, cung chim” tiếng trước de,
Tôi người họ Lục chở đầy xe,
Kén tơ kéo hết ra thân nhộng,
Hơi tiếng kêu còn nhọc sức ve.
Ngư ngâm rằng:
Tàu ngựa cầm trâu, trước lỗi nghì.
Năm Hồ roi dấu lấp đường đi.
Việc đời hỏi tới người mò rận,
Nạn nước trông về kẻ bán ky.
Nhập Môn ngâm rằng:
Cuộc cờ thúc quý ngựa xe đua,
Nay chúa, mai tôi, lộn ấn bùa.
Một núi ông Đoàn riêng trốn khách,
Năm triều ngươi Đạo nhọc thờ vua.
Bốn người họa xướng thơ rồi,
Thứ này Đạo Dẫn phản hồi Đông Thanh.
Dẫn rằng: Bên quán Đông Thanh,
Ngày mai đã đến giờ lành luyện đan.
Ta xin về chốn luyện đan,
Ngư, Tiều ngươi phải theo Đường Nhập Môn.
Hai ngươi nay gập Nhập Môn,
Theo nhau cho trọn một phồn nho y,
Phần ta theo việc tiên y,
Ngày sau cũng tới Đan Kỳ hợp nhau.
Ngư, Tiều nghe nói dàu dàu,
Muốn theo Đạo Dẫn trước sau vuông tròn.
Riêng hiềm một nỗi vợ con,
Trần duyên chưa mãn, khó lòn động tiên,
Trót đà chịu phép chân truyền,
Ở am Bảo Dưỡng hỏi biên năm ngày.
Tuy chưa đủ thấy nghề hay,
Song nhờ dạy vẽ, công dày, ơn sâu.
Nửa đường đây lại chia nhau,
Khiến lòng bịn rịn, mặt sầu chẳng vui.
Rót ba chén rượu phụng bồi,
Lễ đưa Đạo Dẫn, một hồi tạm ly.
Tiều rằng: Chưa đến Đan Kỳ,
Mười phần đường thuốc, mới đi năm phần.
Mấy ngày nghe đạo truân truân,
Như mình ngồi giữa gió xuân hơi hòa.
Xưa rằng : “Ích hữu có ba”,
Giúp ta lành ấy cũng là ngô sư.
Môn rằng: Đạo Dẫn đã đi,
Bữa nay cũng vắng Đan Kỳ thầy ta.
Nhân khi gặp tiết thưởng hoa,
Bạn hiền mời nhóm chơi toà Thiên Thai.
Mỗi phen chơi cảnh Thiên thai,
Cầm, kỳ, thi , tửu, tiệc dai quên về,
Thầy đi chưa hẹn ngày về,
Xin hai người hãy đề huề theo ta.
Theo ta tới chỗ riêng nhà,
Ở chờ vài bữa rồi qua Đan Kỳ.
Ngư, Tiều theo Nhập Môn đi,
Tách am Bảo Dưỡng đến Y quán rồi.
Từ nay Y quán lần hồi,
Đến nhà thong thả tiệc bồi vui say.
Họ Bào, họ Mộng lối này,
Ở nơi đường thị lâu ngày học riêng.
Sẵn sàng nghề nghiệp thầy truyền,
Vầy nhau bàn luận, hỏi biên phép mầu,
Lại đem vấn đáp chuyện đầu,
Tra vào sách thuốc, câu câu chẳng lầm.
Môn rằng: Bạn cũ thanh khâm,
Mừng nay đặng chữ đồng tâm giúp đời,
Chi lan thơm cũng một hơi,
Chớ chê bỉ thử, mờ lời keo sơn.
Nhớ câu “Thủ thiện phụ nhân”,
Nhờ người biết trước mở lần biết sau.
Mấy lời Đạo Dẫn vẽ đâu.
Chỗ nào sót ý, phải âu xét bàn,
Miễn cho thấy đạo rõ ràng,
Chớ e hỏi dưới ngỡ ngàng hổ ngươi.
Tiều rằng: Muốn học làm người,
Đã đi cầu đạo, sợ cười chê chi.
Chưa hay trước cõi rừng Y,
Có truông Âm Chất, việc gì kể ra ?
Môn rằng: Thứ nhất y khoa,
Chữ kêu “âm chất”, thật là âm công.
Xưa rằng: Thầy thuốc học thông,
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh.
Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghẻ tài,
Biết không, không biết mặc ai,
Chuyên nghề làm phải, chẳng mài thiệt hơn.
Trọn mình noi nghĩa ở nhơn (nhân).
Bo bo giữ việc ra ơn, làm lành.
Bệnh nào cho thuốc chẳng lành,
Nhỏ lòng lo sợ, xét mình phải chăng.
Vốn không theo thói tham nhăng,
Nhân khi bệnh ngặt, đòi ăn của nhiều.
Cũng không ghé mắt coi dèo,
Chỗ giàu trân trọng, chỗ nghèo đảo điên.
Đời nhiều thầy thuốc bất thiên,
Đủ tiền đủ vị, thiếu tiền hốt vơ.
Mở coi trong sách y thư,
Nêu thiên Âm chấtchỗ nhờ sinh linh.
Phong, lao, các chứng thiên hình,
Gặp thời thương xót, bệnh tình khôn toan.
Chẳng nên láu táu khoe khoang,
Lấy tiền ăn trước, cuốn đàng chạy sau.
Thấy người đau, giống mình đau,
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Ăn mày cũng đứa trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không.
Tổ xưa thuốc điểm mắt rồng,
Thuốc châm môi cọp, khổ công dường nào,
Chữ Kinh “ngô dữ ngô bào”.
Nghĩ dân cùng vật lẽ sao cũng đồng.
Nhớ câu “Y tích âm công “,
Ta nên chứa phúc để dùng lâu thay !
Hỡi ai có bụng như vầy,
Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư.
Ngư rằng: Nhà đạo chẳng hư.
Bởi thầy trước để phúc dư đã đành.
Đến như người tục làm lành,
Chưa hay âm chất có thành cùng chăng?
Môn rằng: Âm chất không ngần,
Việc làm lành ấy, há ngăn người nào ?
Giàu thời bắt chước xưa hào,
Nợ lâu đốt khế, lúa vào đong ra,
Con ai cô quạnh mẹ cha,
Lớn khôn chọn gả, bé nhà gìn nuôi.
Thấy người đói khó chớ nguôi,
Chỗ cho cơm áo, chỗ giồi tiền lương,
Chỗ thời thí dược, thí quan,
Chỗ thời giúp táng, trợ tang vuông tròn.
Bạn nghèo chôn bạn giùm con,
Nhà con vợ sẵn hầu non cho về.
Vàng quên, của gửi trả về,
Thế thường, thay nạp, người bia nhờ mình.
Sang thời bắt chước xưa minh,
Án từ rửa sạch tình hình dân oan.
Noi câu “xuất tội hoạt hàng “,
Cứu tai muôn họ, dấy đàng lợi sinh,
Nghèo thời bắt chước xưa thanh,
Gặp nàn trút đãy, cứu sinh mạng người.
Tập theo nghề thuốc cứu người,
Cứu đui, cứu ngọng, ai cười trối thây.
Phóng hư, phóng hạc theo bầy,
Bắc cầu đưa kiến, làm thầy quạ đau.
Hèn thời bắt chước xưa tu,
Vá giày, vá dép, công phu lợp nhà.
Hoặc khi khâm liệm, khiêng ma,
Việc người khó nhọc, thảy ra sức giùm.
Ấy là âm chất cả dùng,
Lấy câu “vi thiện” kể chung phẩm người.
Đến như âm chất gốc trời,
Ở câu hiếu thuận, đời đời bia son.
Người xưa giữ vẹn đạo con,
Thảo nhờ cha mẹ, thuận tròn nghĩa thân.
Sống thời bắt chước thầy Tăng,
Hôm mai nuôi miệng lại phăn nuôi lòng.
Thác thời bắt chước Chu công,
“Lành noi lành nối”, dấu ông chú rằng.
Thường thời bắt chước vua Văn,
Sớm khuya thăm hỏi, bữa ăn kính hầu.
Biến thời bắt chước họ Ngu,
Lần lần dỗ dắt, khỏi câu gian tà.
Chuyện khôn xiết kể trăm nhà,
Kia làm con thảo, sinh ra cháu lành.
Hễ như mấy kẻ có danh,
Hai mươi bốn thảo, tiếng lành đồn xa,
Bằng ai bắt chước nhà va,
Hết lòng thảo thuận, ấy là âm công.
Cho hay gốc lớn vững trồng,
Vậy sau dòng lớn mới không mối dường.
Coi pho Vĩnh loại kiềm phương,
Thể nhân vị lục, thời tường các danh.
Tiều rằng: Hỏi việc bất bình,
Xưa nay nhiều kẻ làm lành làm duyên.
Những người cùng Phật, cùng Tiên,
Cất chùa, cất miễu, bạc tiền đua nhau.
Những người đắp sửa đường cầu,
Làm chay hát bội, của giàu thí ra,
Ta nghe làm phúc nhiều nhà,
Cớ sao mắc họa lại ra bần xừ ?
Môn rằng: Đời lắm danh hư,
So câu “tích thiện hữu dư ” sao nhằm ?
Kẻ giàu muốn đặng nghìn trăm,
Cho vay một vốn, bốn năm mười lời,
Kẻ sang cậy thế lấn hơi,
Tham lam của quấy, ăn chơi mấy ngày
Lấy câu hãn huyết chi tài,
Cúng cho chùa miễu, nào ai chứng lòng.
Trong mình thảo thuận vốn không,
Gọi là làm phước, phước trồng vào đâu?
Coi câu “Thiện ác đáo đầu..”,
Lành đâu có trả, dữ đâu có đền.
Người tua xét lại hai bên,
Ít lành, nhiều dữ,chẳng nên trách trời.
Tiều rằng: Trước Đạo Dẫn mời,
Đến am Bảo Dưỡng kề nơi truông này.
Chưa hay Âm Chất truông này,
Có am Bảo Dưỡng ở vầy theo chi ?
Môn rằng: Chỗ dạy nhà y,
Đã tu âm chất phải vì tấm thân.
Tiếc yêu hai chữ “tinh thần”,
Nhảy vòng thực sắc, theo phần đắm lung.
Dù không biết chước gìn long,
Theo bề Lục Tặc hại trong lẽ trời.
Ở mình đã tối lẽ trời,
Làm thầy cứu mạng giúp đời sao xong,
Muốn cho thần sáng, tinh ròng,
Giữ nuôi khí huyết, ngăn lòng dục sâu,
Thử coi Tố vấn thiên đầu,
Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau rõ ràng,
Kỳ Hoàng xưa đẵ mở đàng,
Sách y nay có lời bàn Thiên chân.
Thiên chân tiết giải rõ phân,
Coi vào thấy gốc, giữ thân nuôi lòng.
Muốn bề ăn ở đặng xong.
Rượu trà có bữa, việc phòng chớ dâm.
Người nào đàm hỏa hư âm,
Lời bàn Nhự đạm phải tầm (tìm) chín coi,
Người nào tình dục không soi,
Lời bàn Âm hỏa phải coi cho ròng.
Cho hay thực sắc đắm lòng,
Người nhiều thèm muốn, khá phòng khá răn.
Ta nghe thánh trước bảo răn :
“Đau hay cầu thuốc, chi bằng ngừa đau”.
Biết người trước khỏi bệnh đau,
Máu hơi đầy đủ, tuổi đầu sống dai.
Tiều rằng: Xưa ấy sống dai,
Nay nhiều chết trẻ, cũng loài vi nhân.
Cớ sao thọ yểu khác phần,
Hoặc là thiên quý độ lần sai chăng ?
Nhập môn giây phút than rằng:
“Xưa nay một lẽ”, thầy hằng dạy ta.
Người xưa ăn ở thật thà,
Ít ai đắm rượu tham hoa quên mình.
Vốn không làm quấy nhọc hình,
Nào lo mắc bệnh thất tình, lục dâm.
“Thiên niên” hai chữ trọn cầm,
Vừa chừng trăm tuổi mới trầm về quê.
Người nay ăn ở khác bề,
Rượu dầm trong bụng, sắc kề bên thân.
No say rồi lửa dục hừng,
Đốt trong khí huyết, tinh thần còn chi ?
Chịu đau lấy chứng nan y,
Bốn năm mươi tuổi chết đi uổng đời,
Coi thiên Bảo dưỡng mấy lời,
Biết người thọ, yểu, số trời nào riêng,
Thường nghe thiên quý số biên,
Con trai, con gái, xưa truyền như nay,
Gái sinh, bảy tuổi răng thay,
Tóc lần lần rậm, phần đầy hơi âm.
Hai bảy thông mạch Xung Nhâm,
Gọi “thiên quý chí”, mở trầm nguyệt kinh.
Ba bảy hơi thận quân bình,
Răng cùng mọc đủ, trong mình mới sung,
Bốn bảy gân cốt đều sung,
Tóc đen dài tóc, hình dung tráng phì.
Năm bảy Dương minh mạch suy,
Tóc dài hầu rụng, diện bì hết non.
Sáu bảy hơi dương trên mòn,
Tóc râm mặt ngấn, ít còn như xưa.
Bảy bảy Xung Nhâm mạch hư,
Gọi “thiên quý kiệt” mới từ đường kinh.
Hỡi ôi ! phận gái chữ trinh,
Bốn mươi chín tuổi, hết sinh đẻ rồi.
Con trai tám tuổi thận bồi,
Răng thay, tóc rậm, vừa ngôi tiểu đồng,
Hai tám hơi thận mới sung,
Rằng “thiên quý chí” mạch thông, tinh đầy.
Ba tám răng cứng, tóc mây,
Bốn tám xương đá, gân dây, mạnh kỳ.
Năm tám hơi thận mới suy,
Tóc răng hầu mỏi, diện bì hầu tiêu.
Sáu tám tóc rụng răng xiêu,
Bảy tám xương mỏi, gân teo, da dùn.
Tám tám tạng phủ đều thun,
Rằng “thiên quý kiệt” lạnh lùng hơi dương.
Cho hay thiên quý số thường,
Con trai, con gái, một đường xưa nay,
Bằng ai bảo dưỡng thời may,
Ngoài tuần thiên quý còn bày gót lân.
Bằng ai tửu sắc quá chừng,
Dầu còn thiên quý trong tuần, cũng hư.
Tiều rằng: Rõ lẽ nên hư,
“Dưỡng sinh” hai chữ tinh như lời này,
Cớ sao còn kẻ chơi mây,
Lìa đời, dứt thói, gọi thầy tu tiên ?
Môn rằng: Một việc tu tiên,
Xưa vua Hoàng Đế phép truyền gây ra.
Sau rồi phép ấy sai ngoa,
Đời sau phương sĩ lấy tà hoặc nhân.
Vậy thà theo lẽ an phần,
Trăm năm nhờ mạng trong thân có trời.
Coi Vương Bao tụng mấy lời,
Sáng giơ đường chính, dạy đời báu to,
Làm chi nghiêng ngửa duỗi co,
Như ông Bành Tổ riêng lò hóa công.
Làm chi như họ Kiều, Tùng.
Thổ hà, xì hít hơi hung luyện hình.
Xin lòng nhân dục cho thanh,
Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình.
Xin lòng luân lý cho minh,
Nuôi lòng nào phải đọc kinh Âm phù.
Cho hay Tiên, Phật rằng tu,
Cũng trong bảo dưỡng đương đầu trổ ra.
Cả than Đạo Dẫn bạn ta,
Học y một cửa, nay đà tách thân.
Lòng va muốn chữ xuất trần,
Để câu phụ tử quân thần mặc ai.
Tiếc đời ôm đức cưu tài,
Sĩ đều có khí khôn nài đó sao.
Ngư rằng: Thời vậy nài sao.
Dù Tiên, dù Phật, bề nào cũng xong.
Nay ta còn chỗ nghi lòng,
Nghề y, nghề bốc, khác dòng nhau xa.
Cờ sao ba tượng trong tòa,
Tiên thiên đồ ấy treo ra làm gì ?
Môn rằng: Tám quẻ Bào Hy,
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Tiên thiên, một bức đồ khai,
Để coi phương hướng muôn loài hóa sinh.
Kiền, tây bắc, Tuất, Hợi đình,
Khảm phương chính bắc, ngôi đành Tý cung,
Cấn, đông bắc, Sửu, Dần thông,
Chấn ngôi đương Mão, chính đông phương trời.
Tốn, đông nam, Thìn, Tỵ vời,
Ly cung đương Ngọ, hướng trời chính nam.
Khôn : Mùi, Thân, phía tây nam,
Đoài đương ngôi Dậu, chính nhằm tây phương.
Xét trong tám hướng âm, dương,
Máy trời xây bủa, bốn phương năm hành.
Hậu thiên Ly, Khảm vẽ hình.
Cho hay khí huyết trong mình chủ trương.
Ly là hơi, lửa, thuộc dương,
Khảm là nước, máu, lẽ thường thuộc âm.
Song mà Ly trống vốn âm,
Khảm cung đầy giữa, thật cầm chân dương.
Ấy chia hư thực âm dương,
Nước đầy, lửa trống, khôn lường máy sâu.
Mạnh thời nước lửa, hoà nhau,
Yếu thời nước lửa chia đau trong mình.
Đạo y nửa ở Dịch kinh,
Chưa thông lẽ Dịch, sao rành chước y.
Tổ rằng “Muốn học Hiên Kỳ,
Trước tua đọc quẻ Bào Hy mới tường “.
Tiều rằng: Một tượng Minh Đường,
Một đồ khí hậu chủ trương việc gì ?
Môn rằng: Trên dưới hai nghì,
Giữa thì người vật, tóm ghi một đồ.
Vẽ mười vòng nhóm một đồ,
Để coi khí hậu xây bồ ứng nhau.
Năm ngày một hậu đến xâu,
Ba hậu một khí, cứ đầu toán ra.
Hai khí một tháng kể ra,
Giáp mười hai tháng, ấy là một niên.
Một niên chia bốn mùa riêng,
Hai mươi bốn tiết, theo liền dựng giao.
Đoanh xây hai chục tám sao,
Trải ba mươi sáu cung nào chẳng xuân.
Mỗi năm khí hậu xây vần,
Mười vòng lớn nhỏ, có chừng thuỷ chung.
Việc nguời, lẽ vật ở trong,
Một hồ trời đất, mười vòng tóm giơ.
Lặng lòng coi bức đồ thơ (thư),
Ba ngàn thế giới, thấy bờ cõi xinh.
Sách châm lại vẽ ba hình,
Ba hình người ấy gọi Minh Đường đồ.
Một hình nằm sấp để đo,
Thái dương kinh túc, huyệt dò sau lưng.
Một hình nằm ngửa làm chừng,
Dương minh kinh túc, huyệt ngưng trước mình,
Một hình ngồi mé hông trinh,
Thiếu dương kinh túc, huyệt hành hai bên.
Ba hình tóm lại một nền,
Ba trăm sáu chục năm tên huyệt rời.
Rộng coi kinh lạc nơi nơi,
Minh người đủ ứng độ trời một niên,
Dón coi thủ túc đôi bên,
Trong ba âm, với ngoài liền ba dương.
Mười hai kinh huyệt chia đường,
Sáu du, sáu hợp, chỗ thường phép châm.
Bệnh nào đau ở kinh âm,
Huyệt du cấp cứu, khỏi lầm tai ương.
Bệnh nào đau ở kinh dương,
Cứu theo huyệt hợp ngăn đường tà đi.
Cứ theo du hợp phép ghi,
Chân trời kíp tỉnh, bệnh gì còn lo.
Kinh dương sáu phủ đếm cho,
Bảy mươi hai huyệt, đủ dò tay chân,
Kinh âm, năm tạng có chừng,
Sáu mươi chỗ huyệt, tay chân chia đều.
Kể mười hai huyệt tóm nêu,
Có lời toát yếu, đặt điều thơ ca.
Sáu âm, sáu dương đã ca,
Lại thêm khí huyết theo ra sáu bài,
Kể thơ, mười có tám bài,
Âm dương khí huyết theo loài quán thông.
Muốn cho châm cứu phép ròng,
Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng thi ca.
oOo