Tiểu sử Tổ Vô Ngôn Thông (Sơ Tổ Khai Phái Vô Ngôn Thông – Việt Nam)

0

Tượng thờ Tổ Vô Ngôn Thông tại chùa Kiến Sơ, Bắc Ninh.

 

TIỂU SỬ

TỔ VÔ NGÔN THÔNG – 無 言 通
(?-826 T.L)

Sơ Tổ Khai Phái Vô Ngôn Thông – Việt Nam

oOo

Thiền Sư Vô Ngôn Thông người Quảng Châu, họ Trịnh, xuất gia tu học tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu. Ngài tính tình trầm lặng, ít nói, nhưng lại thông tuệ, cái gì cũng mau hiểu, mau biết cho nên thời nhân gọi hiệu Ngài là Vô Ngôn Thông, từ đó về sau, người ta không còn biết tên thật hay pháp danh của Ngài là gì nữa mà chỉ gọi Ngài là Thiền Sư Vô Ngôn Thông (sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi là Bất Ngôn Thông; sách Cao Tăng Truyền Ðăng Lục của Thông Tuệ đời Tống gọi Ngài là Thông Thiền Sư).

Một hôm Ngài vừa làm lễ Phật xong, có vị thiền khách tới hỏi:

– Ông vừa làm lễ gì đó?

Ngài đáp:

– Lễ Phật.

Vị thiền sư chỉ vào tượng Phật hỏi:

– Phật là cái này đấy hả?

Ngài không đáp được. Ðêm ấy, Ngài mặc y áo chỉnh tề tìm đến phòng vị thiền giả làm lễ rồi hỏi:

– Hồi sáng ngài có hỏi một câu, tôi chưa biết được tôn ý thế nào?

Vị thiền giả nói:

– Tọa chủ được bao nhiêu mùa kiết hạ rồi?

Ngài đáp:

– Mười hạ.

Vị thiền giả lại hỏi:

– Vậy đã xuất gia chưa?

Câu hỏi làm Ngài càng hoang mang, mờ mịt. Vị thiền giả nói:

– Có vậy mà cũng không hiểu thì có tu đến một trăm mùa kế hạ cũng vô ích.

Vị thiền giả liền rủ đưa Ngài đi tham yết Thiền Sư Mã Tổ – Ðạo Nhất. Không may đến Giang Tây thì Thiền Sư Mã Tổ đã tịch rồi, ông liền đưa Ngài đi tham yết Thiền Sư Bách Trượng – Hoài Hải là đệ tử đắc pháp của Mã Tổ.

Một hôm trong giờ tham vấn, có vị Tăng hỏi Ngài Bách Trượng:

– Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại Thừa?

Bách Trượng trả lời:

– Đất của tâm nếu không bị ngăn che thì mặt trời trí tuệ tự nhiên rọi đến (tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu).

Nghe câu này Ngài hoát nhiên đại ngộ!

Sau đó một thời gian, Ngài về lại Quảng Châu, ở tại chùa Hòa An. Sách Cao Tăng Truyện của Thông Tuệ nói rằng Ngài cũng có một thời gian trú trì chùa Hoa Nam ở Thiều Châu, nơi đây ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng đã từng cư ngụ. Trong thời gian ở chùa Hoa Nam, Ngài có dạy Thiền Sư Ngưỡng Sơn – Huệ Tịch. Ngài Huệ Tịch hồi đó mới xuất gia, mười bảy tuổi. Sách Thuyền Uyển Tập Anh chép rằng một hôm Ngài bảo Huệ Tịch:

– Đem cái ghế kia qua đây cho tôi một chút.

Khi Huệ Tịch khiêng ghế tới, Ngài lại nói:

– Đem giúp trở lại chỗ cũ.

Huệ Tịch khiêng lại chỗ cũ. Ngài hỏi:

– Bên này có gì không?”

– Không có gì.

– Bên kia có gì không?

– Không có gì.

Ngài gọi:

– Huệ Tịch!

Huệ Tịch đáp:

– Dạ.

Ngài bèn nói:

– Đi đi.

Những câu đối đáp kia chính là những thăm dò Ngài thử trình độ thiền học của Ngưỡng Sơn. Ngài Ngưỡng Sơn sau đó còn học với các Ngài Ðàm Nguyên, Ứng Chân và Quy Sơn. Về sau này Ngưỡng Sơn thành lập một trong năm thiền phái nổi tiếng ở Trung Hoa là Thiền Phái Quy Ngưỡng.

Một hôm tại chùa Hòa An, có người hỏi Vô Ngôn Thông:

– Thầy có phải là thiền sư chăng?

Ngài đáp:

– Tôi chừa từng học về thiền.

Giây lâu sau Ngài gọi tên người kia. Người kia đáp:

– Dạ.

Ngài liền chỉ tay ra một gốc cây thoan lư (gỗ gụ) ngoài sân mà không nói gì.

Năm Canh Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 15 đời nhà Ðường (820 T.L) Ngài Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu qua Việt Nam, ở lại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Ðây là một ngôi chùa mới được thành lập, ở đó có một vị Tăng tên là Lập Đức trú trì. Cư trú ở đây, hằng ngày ngoài hai bữa cơm cháo thì Ngài dành hết thì giờ vào việc thiền tọa, xây mặt vào vách, không nói năng gì, cũng không mấy ai hay biết.

Nhiều năm trôi qua như vậy, ít ai để ý đến Ngài, duy chỉ có Lập Ðức thấy phong thái đặc biệt của Ngài nên hết lòng kính trọng, chăm sóc và tôn làm thầy. Do sự gần gũi này mà Lập Ðức tiếp nhận được tông chỉ mầu nhiệm của Vô Ngôn Thông, sau được Ngài đổi tên là Cảm Thành vào truyền cho tâm pháp.

Ngài ở tại chùa Kiến Sơ được sáu năm. Một hôm Ngài gọi Cảm Thành vào và dặn:

“Ngày xưa Đức Thế Tôn vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Việc hóa độ hoàn tất, Ngài thị hiện Niết-bàn. Cái diệu tâm gọi là Chính Pháp Nhãn Tạng là Thực Tướng Vô Tướng, là Pháp Môn Tam Muội, Ngài đem phú chúc cho đệ tử là Ma-ha Ca-diếp, rồi đời đời truyền nối. Từ Bồ-đề Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang, vượt bao nguy hiểm để truyền pháp này; qua Lục Tổ ở Tào Khê, người đã từng đạt được chính pháp mà Ðạt-ma truyền đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Trong thời gian đó người đời còn thiếu hiểu biết và đức tin nên phải truyền y bát để chứng tỏ sự đắc pháp. Nay đức tin đã thuần thục nên không truyền y truyền bát nữa, chỉ lấy tâm truyền tâm. Lúc ấy Tổ Nam Nhạc – Hoài Nhượng đắc thọ tâm truyền trước, truyền cho Mã Tổ – Ðạo Nhất; Mã Tổ truyền lại cho Bách Trượng – Hoài Hải. Ta được tâm pháp của Bách Trượng, đã từng ở lâu phương Bắc tìm người có căn cơ Đại Thừa nhưng chưa gặp nên đi về phương Nam để tìm bậc thiện tri thức. Nay gặp ông ở đây thật là có duyên đời trước. Xưa, Tổ Sư Nam Nhạc khi sắp tịch có dặn mấy lời:

Nhất thiết chư pháp giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại
Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.

Nghĩa là:

Tất cả các pháp đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh, pháp không chỗ trụ
Nếu đạt tâm địa chỗ trụ không ngại
Chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.

Ông hãy nghe bài kệ truyền pháp đây:

Chư phương hạo hạo
Võng tự huyên truyền
Vị ngô thủy tổ
Thân tự Tây Thiên
Truyền pháp nhãn tạng
Viết vị chỉ “thiền”
Nhất hoa ngũ diệp
Chủng tử miên miên
Tiềm phù mật ngữ
Thiên phạn hữu duyên
Hàm vị tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên thử độ
Thử độ Tây Thiên
Cổ kim nhật nguyệt
Cổ kim sơn xuyên
Xúc đồ thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai chỉ hào ly
Thất chi bách thiên
Nhữ thiện quan sát
Mạc khiểm nhi tôn
Trực nhiêu vấn ngã
Ngã bản vô ngôn.

Nghĩa:

Bốn phương lồng lộng
Mặc sức huyên thuyên
Rằng thủy tổ ra
Gốc ở Tây Thiên
Truyền kho pháp nhãn
Ðược gọi là “Thiền”
Bông hoa năm cánh
Hạt giống lâu bền
Ngàn lời mật ngữ
Vạn câu bản nguyên
Tự nhận làm tông
Tự cho là thiền
Tây Thiên là đây!
Ðây là Tây Thiên!
Xưa nay cùng một
Nhật nguyệt xuyên sơn
Vướng vào là mắc
Phật Tổ mang oan
Sai một hào ly
Lạc tới trăm nghìn
Nên quan sát lại
Chớ lừa hậu côn
Ðừng hỏi ta nữa!
Ta vốn “Vô Ngôn”.

Nói xong, Ngài chấp tay thị tịch, hôm ấy nhằm vào năm Bảo Lịch thứ hai đời Đường (826). Thiền Sư Cảm Thành rước nhục thân Ngài lên hỏa đàn trà tỳ, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du./.

Share.

Leave A Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.