Tổ Tăng Xán – 僧 璨
(497? – 602 T.L).
oOo
Không ai biết quê quán và gốc gác Sư thế nào. Chỉ biết Sư với hình thức cư sĩ, mắc bệnh ghẻ lở, đến lễ Tổ Huệ Khả xin sám tội. Nhơn đó được ngộ đạo, được Tổ cho thọ giới Cụ-túc tại chùa Quang Phước, nhằm niên hiệu Thiên Bình thứ hai (536 T.L) nhà Bắc Tề ngày 18 tháng 3.
Sư theo hầu hạ Tổ được hai năm. Tổ truyền kệ và y bát, bảo phải đi phương xa ẩn tránh kẻo có nạn. Sư đến ở ẩn nơi núi Hoàn Công thuộc Thư Châu.
Đời Châu Võ Đế ra lệnh diệt Phật Pháp (561 T.L). Sư sang ở núi Tư Không, huyện Thái Hồ. Sư thường đổi dời ít khi ở lâu một chỗ nên hơn mười năm mà không ai biết tông tích.
Thời gian Sư ở núi Tư Không có một vị sư người Ấn tên Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang Trung Hoa cầu pháp. Gặp sư, Lưu-chi hết lòng kính mộ, xin làm đệ tử. Sư truyền tâm ấn cho và khuyên qua phương Nam tiếp độ chúng sinh.
Đời nhà Tùy, khoảng niên hiệu Khai Hoàng có ông Sa-di hiệu Đạo Tín, được 14 tuổi, đến lễ Sư thưa:
– Xin Hòa Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
Sư hỏi:
– Ai trói buộc ngươi?
– Không ai trói buộc.
– Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát.
Đạo Tín nghe liền đại ngộ. Từ đây, Đạo Tín theo hầu hạ Sư suốt chín năm. Sau Đạo Tín đến Kiết Châu thọ giới, rồi trở lại hầu thầy rất cần mẫn.
Sư thường dùng lý huyền diệu gạn hỏi, biết Đạo Tín cơ duyên đã thuần thục, bèn truyền y pháp cho ông, Sư bảo:
– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi gắng mà gìn giữ. Nghe ta nói kệ:
Hoa chủng tuy nhơn địa
Tùng địa chủng hoa sanh
Nhược vô nhơn hạ chủng
Hoa địa tận vô sanh.
Dịch:
Giống hoa tuy nhơn đất
Từ đất giống hoa sanh
Nếu không người gieo giống
Hoa, đất trọn không sanh.
Sư dạy tiếp:
– Xưa Tổ Huệ Khả trao pháp cho ta rồi, Ngài đến xứ Nghiệp Đô hoằng hóa hơn ba chục năm mới thị tịch. Nay đã có người thừa kế cho ta thì việc của ta đã xong, còn mắc ở đây làm gì!
Sư đến núi La Phù ngao du hai năm, lại trở về Châu Thư, ngụ tại chùa Sơn Cốc. Dân chúng ở đây nghe Sư đến đều vui mừng tấp nập kéo đến thừa sự cúng dường. Sư đăng tòa thuyết pháp cho tứ chúng nghe. Thuyết xong, Sư đứng ngay thẳng dưới cây đại thọ chấp tay thị tịch.
Nhằm ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần, niên hiệu Đại Nghiệp thứ hai (602 T.L) nhà Tùy, Sư có trước tác bài “Tín Tâm Minh” là một tác phẩm trọng yếu của Thiền Tông hiện còn lưu hành. Vua Huyền Tông đời Đường truy phong hiệu là Giám Trí Thiền Sư.
_______________
Phần đọc thêm:
Đời Đường niên hiệu Thiên Bảo (742 T.L) có quan Doãn huyện Hà Nam tên Lý Thường đến khai mộ Sư, thỉnh thi hài làm lễ trà tỳ. Ông lượm Xá-lợi xây tháp thờ, một phần tặng Sư Thần Hội ở chùa Hà Trạch, một phần luôn mang theo mình./.
Xem danh sách truyền thừa và di ảnh 33 vị Tổ Thiền Tông
Xem sử liệu Tổ Thiền Tông thứ 31 (Tứ Tổ Thiền Tông Trung Hoa)