Văn tế Thập Loại Chúng Sinh

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (cũng gọi với tên khác là Văn Chiêu Hồn) là một bài văn khấn tế đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là hình ảnh “lộn trái” của xã hội trần thế, song khác biệt căn bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả…

Tác phẩm được viết theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Theo một số nhà nghiên cứu văn học, có thể chia bài văn thành bốn phần:

  • Phần một (20 câu): Tả cảnh một chiều thu tháng bảy mưa dầm buồn bã, khiến nhà thơ chạnh lòng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu…
  • Phần hai (116 câu): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của mười loại Cô Hồn.
  • Phần ba (20 câu): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các Cô Hồn.
  • Phần cuối (28 câu): Lời cầu xin phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các Cô Hồn tới nhận phần lễ cúng để siêu độ.

Xuất xứ tác phẩm:

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong bản văn do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương Tuần Báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn Chiêu Hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm Cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Không có tài liệu nào cho thấy Nguyễn Du diễn Nôm bài Văn Chiêu Hồn từ một tác phẩm của Phật Giáo…

Từ Điển Văn Học (NXB Thế Giới, 2004, tr. 1972) cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895, của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn…

Một phần cảnh đời tác giả:

Trong phần giới thiệu Thơ Chữ Hán Nguyễn Du có đoạn:

Cuộc sống “mười năm gió bụi” từ 1786 đến 1795 của Nguyễn Du như thế nào, thì ông đã phản ảnh rõ trong Thanh Hiên Thi Tập. Suốt mười năm ấy, nay đầu sông, mai cuối bể, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, đau ốm liên miên, nghèo không tiền mua thuốc, nhiều lần muốn về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng ở đó nhà cũng không có, mà anh em thì mỗi người một ngả… Đến khi được trở về nhà (làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An) thì ông đã là nhà Nho mới hơn ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, bệnh tật, có lúc bệnh mấy tháng liền mà chỉ nằm chờ chết, trong nhà bếp lạnh tanh…

Cho đến khi ông ra làm quan với triều Nguyễn, gia phả chép: Dầu làm đến chức Á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một học trò nghèo. Trong Nam Trung Tạp Ngâm, ít ra cũng có hai bài thơ nói đến vợ con ăn đói, mặt xanh như lá rau… Tất cả những chi tiết đó giải thích tại sao Nguyễn Du thuộc ‘tầng lớp trên’ mà trong thơ ca lại có một mối đồng tình thắm thiết với những người vốn thuộc ‘tầng lớp thấp’… Điều này thấy rất rõ trong bài văn tế chiêu hồn…

QM

 VĂN  TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm!
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương.
oOo
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà Cô Hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một dài!
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản, Cát lại ngày Y, Chu
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm!
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô Hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh!
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường!
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm!
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu!
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô Hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa hương lạnh lùng!
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê!
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao!
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi!
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng!
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy, có người khốn thương!
oOo
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ, dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối, chân mây
Hoặc là điếm cỏ, bóng cây
Hoặc là quán nọ, cầu này bơ vơ
Hoặc là nương Thần từ, Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ, cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.
oOo
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ Đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng: ”Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo
Của có khi bát cháo, nén nhang
Gọi là manh áo, thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không
Nam-mô Chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài./.

Dưới đây xin giới thiệu thêm với bạn đọc một bản khảo dị khác cũng lưu truyền khá phổ biến trong dân gian mà chúng tôi chưa dám khẳng định xuất xứ:

Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọn đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Xót khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người
Hương khói đã không nơi nương tựa
Phận bồ côi lần lữa đêm đen
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu
Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hắt dương chi
Muôn nhờ Phật lực từ bi
Giải oan cứu khổ, hồn về Tây Phương.

Nào những kẻ tính đường kiểu hạnh
Chí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi đang thuở thị hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bổng phút đâu tro bay ngói dỡ
Khôn đem mình làm kẻ thất phu
Cả giàu sang, nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỹ không đầu van khóc đêm mưa
Đã hay thành bại là cơ
Mà u hồn biết bao giờ cho tan!
Nào những kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga
Một phen thay đổi sơn hà
Tấm thân mảnh lá biết là làm sao
Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Thảm thiết nhẽ không hương không khói
Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu!
Nào những kẻ mão cao áo rộng
Ngòi bút son thác sống ở tay
Kinh luân chất một sải đầy
Đã đêm Quản, Cát, lại ngày Y, Chu
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm
Trăm loài ma xắm nắm chung quanh
Nghìn vàng khôn chuộc được mình
Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén hương
Cô hồn thất thưởng dọc ngang
Nặng oan, khôn lẽ tìm đường hóa sinh!
Nào những kẻ bài binh bố trận
Vâng mệnh sai lĩnh ấn Nguyên Nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc
Bãi sa trường thịt nát máu trôi
Bơ vơ góc bể chân trời
Bó thân da ngựa biết vùi vào đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mù mịt trước sau
Năm năm sương nắng dãi dầu
Còn đâu tế tự, còn đâu chưng thường!
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên nữa, dành phần cho ai
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Tuy rằng bạc chảy tiền dòng
Khi đi mang được một đồng nào đi
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa, bó đóm đưa đêm
Thẩn thơ nội rộc đồng chiêm
Tàn hương giọt nước biết tìm vào đâu!
Cũng có kẻ muốn cầu chữ quý
Dấn thân vào thành thị bôn ba
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em: thiên hạ, láng giềng: người dưng
Bóng tang tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha hương
Gió trăng heo hắt, khói sương lạnh lùng!
Lại có kẻ vào sông ra bể
Cánh buồm dơi chạy xế gió Đông
Gập cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi dập vào lòng kình nghê!
Lại có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chèn dắn hai vai
Gập cơn mưa gió, khí trời
Hồn đường sá, biết lạc loài vào đâu!
Lại có kẻ mắc vào ngũ lính
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan
Nước bầu cơm ống gian nan
Dãi dầu muôn dậm, lầm than một đời
Trong chiến trận xem người như rác
Thân đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương!
Lại có kẻ lỡ làng một tiết
Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con nấy, biết là cậy ai
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu!
Lại có kẻ nằm cầu, gối đất
Dõi những ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, thác vùi đường quan!
Lại có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi thân vào chiếu lác một manh
Gói xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi!
Lại như đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
Ư ư tiếng khóc xót xa nỗi lòng!
Cũng có kẻ đắm sông, chìm suối
Cũng có người sẩy núi, ngã cây
Có người leo giếng đứt giây
Người trôi nước lụt, người lây cháy thành
Người thì mắc sơn tinh, thủy quái
Người thì lâm răng khái, ngà voi
Có người có đẻ không nuôi
Có người sinh sẩy, mệnh người gian nguy

Mắc phải lúc đường đi lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Một người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ
Hoặc là ẩn dọc bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là bãi cỏ lùm cây
Hoặc là cầu nọ quán nầy bơ vơ
Hoặc là tựa Thần từ, Phật tự
Hoặc là quanh đầu chợ, cuối sông
Hoặc là thơ thẩn đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Mấy thu chịu nhiều bề thảm thiết
Dạ héo khô, gió rét căm căm
Dãi dầu biết mấy trăm năm
Khóc than dưới đất, ăn nằm trong sương
Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời, lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi ẵm trẻ dắt già
Có khôn thiêng hỡi, lại mà chứng minh.

Nhờ Phật lực siêu sinh Tịnh Độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Khắp trong tứ đại bộ chu
Não phiền thoát sạch, oán thù rửa xong
Đạo vô thượng thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giái thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện quỷ vương
Linh kỳ một lá dẫn đường độ sinh
Nhờ Phật lực uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê, phút tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ cũng vào nghe Kinh
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng: vạn cảnh giai không
Ai ai lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi
Đàn chẩn tế theo lời Phật Giáo
Vật có gì lưng cháo, nén hương
Gọi là manh áo, thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng siêu thiên
Ai tới đó, dưới trên ngồi lại
Lấy chút lòng, chớ ngại bao nhiêu
Phép thiên biến ít ra nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có có chăng chăng
Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng
Nam-mô nhất thiết siêu thăng thượng đài./.

Quang Mai sưu tầm.

2 thoughts on “Văn tế Thập Loại Chúng Sinh

  1. Các bác cho em hỏi nghĩa của từ “Quản Cát” và “Y Chu” ở bài văn chiêu hồn này là gì? Em tra trên mạng không thấy ai giải thích.

    • Thưa bạn đọc Đặng Trí Nghiêm, Quản, Cát, Y, Chu là 4 nhân vật trong điển tích văn học Trung Quốc:
      – QUẢN là Quản Trọng, người đời Xuân Thu; tướng nước Tề.
      – CÁT là Gia Cát Lượng, người đời Tam Quốc; thừa tướng của Hán-Thục.
      – Y là Y Doãn, tể tướng đời nhà Thương.
      – CHU là Chu Công, tể tướng đời nhà Chu.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.